Danh mục

Không gian nghệ thuật trong thơ Á Nam Trần Tuấn Khải

Số trang: 9      Loại file: pdf      Dung lượng: 13.08 MB      Lượt xem: 8      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bài viết Không gian nghệ thuật trong thơ Á Nam Trần Tuấn Khải trình bày: Khảo sát một số đặc điểm chủ yếu của không gian nghệ thuật thơ Á Nam Trần Tuấn Khải cho phép chúng ta nhận biết rõ thêm tính sáng tạo của nhà thơ trong việc truyền đạt cảm thức của mình về thời đại, biểu hiện nội tâm của con người,... Mời các bạn cùng tham khảo,
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Không gian nghệ thuật trong thơ Á Nam Trần Tuấn Khải KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG THƠ Á NAM TRẦN TUẤN KHẢI NGUYỄN THỊ HỒNG XUYẾN Trường THCS Lưu Văn Lang, Thị xã Sa Đéc, Tỉnh Đồng Tháp HOÀNG ĐỨC KHOA Nhà xuất bản Đại học Huế Tóm tắt: Khảo sát một số đặc điểm chủ yếu của không gian nghệ thuật thơ Á Nam Trần Tuấn Khải cho phép chúng ta nhận biết rõ thêm tính sáng tạo của nhà thơ trong việc truyền đạt cảm thức của mình về thời đại, biểu hiện nội tâm của con người. Trên một số mặt, có thể nhận thấy thơ Á Nam đã vượt qua nhiều qui phạm nghệ thuật đương thời để vươn tới một hệ thống nghệ thuật mới, gắn với văn học hiện đại Việt nam. Không gian nghệ thuật là sự thể hiện những cảm nhận chủ quan của chủ thể trữ tình về thế giới khách quan, là sự phản ánh cái chủ quan của hiện thực khách quan trong tác phẩm. “Là hình thức tồn tại của vật chất” [5, tr. 164], đi vào tác phẩm nghệ thuật, không gian trở thành hình thức, môi trường tồn tại của nhân vật, qua đó, người nghệ sĩ thể hiện tư tưởng, tình cảm chủ quan của mình. Không gian trong nghệ thuật không bao giờ được giữ nguyên chiều kích và khách quan như thực tại mà nó được sáng tạo thông qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ gắn với sự phong phú của các phương tiện nghệ thuật ngôn từ, với những rung động nghệ thuật khi nhìn về con người và thế giới nên nó còn mang ý nghĩa nhân sinh. 1. Không gian nghệ thuật trong thơ Á Nam Trần Tuấn Khải chủ yếu được khắc họa qua khung cảnh đất nước – lịch sử và cảnh sinh hoạt đời thường của con người, rất phù hợp với cái tôi thế sự của một nhà thơ yêu nước dạt dào. Nhờ tài năng và vốn sống, Á Nam đã tạo ra nhiều kiểu không gian để chuyển tải nhiều tư tưởng, tình cảm của mình trong sáng tác nghệ thuật. Nói đúng hơn, không gian đó không đơn thuần là hiện tượng địa lí, vật lí mà lớn hơn là nó còn gắn với ý niệm của nhà thơ về giá trị và sự cảm nhận về giới hạn giá trị con người. Không gian đó là một “không quyển” tinh thần bao bọc cảm thức của con người, là một hiện tượng tâm linh nội cảm. 1.1. Thơ Á Nam gắn liền với hiện thực đất nước. Trong giai đoạn này, đất nước đang bị họa ngoại xâm, nhân dân phải chịu cảnh lầm than cơ cực. Là một người yêu nước, Á Nam rất đau xót trước cảnh bị thực dân, đế quốc đô hộ nên thơ Á Nam tìm về lịch sử để giãi bày và gửi gắm khát vọng. Thiếu Sơn trong Phê bình và cảo luận (1933) đã nói: “Ông Khải thường hay cảm về thời thế mà nặng lòng với đất nước non sông nên ông thường hay ngâm vịnh về lịch sử…” [1, tr. 372-373]. Á Nam đã viết hàng chục bài thơ vịnh sử như Chơi thành Cổ Loa, Qua nhà giám, Đề đền vua Hùng Vương, Thăng Long hoài cổ, Trường thán thi, Hai chữ nước nhà... [...] Và chính các bài thơ này đã góp phần tạo nên một không gian lịch sử thiêng liêng, mang nhiều ý nghĩa. Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế ISSN 1859-1612, Số 03(19)/2011: tr. 72-80 KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG THƠ Á NAM TRẦN TUẤN KHẢI 73 Hiện thực xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX diễn ra nhiều cảnh tượng thương tâm: cảnh bị bóc lột của người dân nô lệ, cảnh nghèo khổ của người dân mất nước… đặc biệt là cảnh chia ly của con người [3]. Cảnh chia ly trong buổi loạn lạc ít nhiều đều mang màu sắc ảm đạm, thê lương, làm đau xé tim gan người ra đi cũng như người ở lại. Không gian hiện thực của buổi chia ly được thể hiện cụ thể và sâu sắc hơn qua lăng kính của Á Nam và trở thành không gian nghệ thuật mang giá trị thẩm mỹ và giá trị nhân sinh cao cả. Á Nam cũng từng chứng kiến những cuộc chia ly đầy nước mắt của những người vợ tiễn chồng, những người bạn tiễn nhau… Theo lời của nhiều nhà thơ cùng thời: “Khoảng năm hai mươi tuổi, Á Nam thường giao du với các nhà chí sĩ, những bậc lão thành, cũng như những người thiếu tráng, ngày đêm mài miệt ngâm vịnh văn chương, nghiên cứu các học thuyết Đông Tây kim cổ. Lúc đó trong đám anh em, có nhiều người vì mang lòng phẫn uất với bọn thực dân pháp, trốn tránh đi ra nước ngoài để tìm phương kế cứu giang sơn tổ quốc. Trong thời gian đó, Á Nam cũng đã có phen lần ra tận biên thùy ở miền Móng Cái, mong lân la sang bên Trung Quốc để tìm kiếm bạn đồng tâm. Chẳng may công chuyện không thành, đành buồn bã quay về. Sau đó còn có nhiều phen ông lần theo các đường ra Nam vào Bắc... song cũng đều thất vọng. Tuy vậy, trong đám bạn bè cùng chí hướng của ông, những người gặp được cơ hội len lỏi ra nước ngoài cũng không phải là ít. Vì thế trong lúc tiễn đưa bạn hữu, Á Nam đã chan chứa cảm xúc, viết ra bài hát Tiễn chân anh Khóa xuống tàu để diễn tả tấm lòng thương bạn tha thiết của mình” [4, tr. 104-105]. Bài hát rất phổ biến trong Nam, ngoài Bắc hồi đó, được các bác hát xẩm ngân nga không chán: “Anh Khóa ơi! Em tiễn chân anh xuống tận bến tàu / Đôi tay em đỡ cái khăn trầu, em lấy đưa anh / Tay cầm trầu giọt lệ chạy quanh / Anh xơi một miếng cho bỏ chút tình em nhớ mong”. Đây là một cuộc chia ly như tất cả những cuộc chia ly từ nghìn thuở trên đất nước Việt Nam. Tình trường của ly biệt là diễn ra trên bến sông, cảnh sông nước bao giờ cũng mênh mang, dào dạt ...

Tài liệu được xem nhiều: