Danh mục

Không nên lạm dụng siêu âm trong chẩn đoán và theo dõi thai nghén

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 105.09 KB      Lượt xem: 9      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 1,000 VND Tải xuống file đầy đủ (6 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nhiều nhà khoa học cho rằng, cần nhận thức một cách nghiêm túc và đúng đắn về nguy cơ có thể của siêu âm, mặc dầu chưa có những bằng chứng thực sự thuyết phục về những nguy cơ đó Siêu âm là một phương tiện chẩn đoán được áp dụng rộng rãi trong đánh giá thai nghén. Bắt đầu được thực hành khoảng 40 năm trước trên thế giới, siêu âm tạo nên một cuộc cách mạng và trở thành một công cụ không thể thiếu trong hầu hết mọi lĩnh vực chẩn đoán y khoa nói chung...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Không nên lạm dụng siêu âm trong chẩn đoán và theo dõi thai nghén Không nên lạm dụng siêu âm trong chẩn đoán và theo dõi thai nghénNhiều nhà khoa học cho rằng, cần nhận thức một cách nghiêm túc và đúng đắn vềnguy cơ có thể của siêu âm, mặc dầu chưa có những bằng chứng thực sự thuyếtphục về những nguy cơ đóSiêu âm là một phương tiện chẩn đoán được áp dụng rộng rãi trong đánh giá thainghén. Bắt đầu được thực hành khoảng 40 năm trước trên thế giới, siêu âm tạo nênmột cuộc cách mạng và trở thành một công cụ không thể thiếu trong hầu hết mọilĩnh vực chẩn đoán y khoa nói chung và sản khoa nói riêng. Nhìn chung, siêu âmđược dùng để phát hiện các bất thường thai nhi, phần phụ của thai, chẩn đoán vàtheo dõi nhiều trường hợp thai nghén có nguy cơ cao.Siêu âm sản khoa dược bắt đầu ứng dụng trên lâm sàng tại Việt Nam vào nhữngnăm đầu của thập niên 1990, và cũng nhanh chóng trở nên vô cùng thông dụng.Đa số các thày thuốc sản khoa Việt Nam hiện tại sử dụng si êu âm như là phươngtiện hàng đầu để chẩn đoán và theo dõi thai nghén.Không thể kết luận siêu âm là vô hại: Những nghiên cứu đáng lưu tâmNgay cả trong rất nhiều giấy khám siêu âm hoặc trong quá trình thăm khám hay tưvấn, siêu âm được trình bày như không có hại cho bà mẹ và thai nhi hoặc khoa họchơn là “không có bằng chứng để kết luận những nguy cơ của siêu âm có thể gây ravới thai nghén”. Những kiến thức này cùng với sự phát triển cực nhanh của các thếhệ siêu âm hiện đại (3 chiều, 4 chiều, Doppler) cho phép tạo ra các h ình ảnh sốngđộng như thật, đã tạo nên một “làn sóng” sử dụng siêu âm trong cả giới thày thuốccũng như sản phụ hay gia đình sản phụ. Và sử dụng siêu âm đã trở nên lạm dụngkhi trên thực tế siêu âm vẫn có thể gây ra những nguy cơ nhất định, dù chưa đượcxác định chắc chắn, trước mắt và cả lâu dài.Trong một nghiên cứu tại một bệnh viện sản phụ khoa lớn tại Việt Nam năm2003-2004, Tine Gammeltoft, tiến sĩ nhân chủng học tại Đại học Copenhagen đ ãđề cập tới tình trạng lạm dụng siêu âm hiện nay. Rất nhiều các sản phụ trongnghiên cứu này đã nhận được 5-6 lần siêu âm trong quá trình mang thai của họ, vàcó những sản phụ siêu âm tới hơn 10 lần. Vậy số lần siêu âm nhiều như vậy xuấtphát từ nhu cầu thực tế, một đòi hỏi bắt buộc của chuyên môn hay đơn thuần là sựlạm dụng, về phía cả bệnh nhân cũng như thày thuốc?Ngay từ khi bắt đầu ứng dụng siêu âm trong lĩnh vực nghiên cứu hay thực hành,các nhà khoa học thế giới đồng thời bắt đầu nghiên cứu những nguy cơ có thể củasiêu âm. Những nghiên cứu ban đầu, trên những nhóm nhỏ bệnh nhân cho thấynhững kết quả khả quan rằng sóng siêu âm không gây ra những nguy cơ đáng kể.Tuy nhiên, đến năm 1978, Veluchamy bắt đầu đề cập tới những hiệu ứng sinh họccủa sóng siêu âm, và đòi hởi sự cấp thiết cho các nghiên cứu rộng với thời gian dàihơn cho sự phơi nhiễm với siêu âm cho thai nhi, với những liều nhất định và yêucầu các hướng dẫn lâm sàng cụ thể. Năm 1984, trong sự phát triển ồ ạt của si êuâm, các nhà sản khoa hàng đầu tại Viện Sức khoẻ quốc gia Mỹ đã đưa ra cáckhuyến cáo về sử dụng siêu âm một cách đúng đắn.Năm 1988, nghiên cứu của Moore và cộng sự đưa ra kết quả rằng những bà mẹsiêu âm trên 2 lần trong thai nghén có nguy cơ sinh con nhẹ cân hơn các bà mẹsiêu âm ít hơn. Kết quả này được ủng hộ bởi nghiên cứu của Marinac-Dabic vàcộng sự năm 1994 rằng nguy cơ sinh con nhẹ cân tăng gấp 2 lần ở các bà mẹ siêuâm nhiều hơn 4 lần trong thời kỳ thai nghén.* Một nghiên cứu tại Việt Nam cho thấy: Nhiều sản phụ được siêu âm 5-6 lầntrong quá trình mang thai, và có nh ững sản phụ siêu âm tới hơn 10 lần. Số lần siêuâm nhiều như vậy xuất phát từ nhu cầu thực tế, một đòi hỏi bắt buộc của chuyênmôn hay đơn thuần là sự lạm dụng?Nghiên cứu của Campbell và cộng sụ năm 1993 chỉ ra rằng các bà mẹ được siêuâm quá nhiều trong thời kỳ thai nghén có nguy co cho trẻ chậm nói hơn các bà mẹkhông được siêu âm. Những nghiên cứu của Savelsen (1993) và Kieler (1998) chothấy tỷ lệ không thuận tay phải ở trẻ trai nhiều h ơn ở những bà mẹ có số lần siêuâm cao.Năm 1988, Ziskin và Pettiti cho rằng chưa có những bằng chứng được xác minhthuyết phục về tác động nguy hại của siêu âm với thai nghén. Tuy nhiên, với sựphát triển nhanh của các máy siêu âm thế hệ mới với nguồn âm vang lớn hơn hoặcvới hiệu ứng xung của phổ Doppler khi tập trung quá lâu vào một điểm có thể gâyra nhiều hiệu ứng sinh học bởi nhiệt, hoặc không bởi nhiệt hoặc bởi âm vang trongkhoang. Vì thế, chính tác giả này (hiện là chủ tịch Hiệp hội thế giới về siêu âmtrong sinh học và y học) đưa ra những giả thuyết về nguy cơ của siêu âm cho sựphát triển hệ thần kinh trung ương của thai nhi.Các nghiên cứu ngày nay hướng sự tập trung cao vào tác động của sóng siêu âmtới sự phát triển của não. Cho dù chưa có những bằng chứng rõ ràng và thuyếtphục, các nhà khoa học vẫn đặt những giả thuyết: Trong suốt quá trình phát triểncủa não ...

Tài liệu được xem nhiều: