Thông tin tài liệu:
Nguyễn Du là một đại thi hào dân tộc, ông là nhà thơ hiện thực và nhân đạo lớn nhất trong văn học Việt Nam thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX .Ông k không chỉ nổi tiếng với “Truyện Kiều” mà ông còn là nhà thơ sáng tác bằng chữ Hán điêu luyện “Thanh Hiên thi tập” là một trong những sáng tác bằng chữ Hán thể hiện tình cảm sâu sắc của Nguyễn Du với thân phận con người (nạn nhân của chế độ phong kiến)....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kiến thức lớp 10 "Độc Tiểu Thanh Ký" –Nguyễn DuKiến thức lớp 10Độc Tiểu Thanh Ký –Nguyễn Du-phần 2Nguyễn Du là một đại thi hào dân tộc, ông là nhà thơ hiện thực vànhân đạo lớn nhất trong văn học Việt Nam thế kỷ XVIII – nửa đầuthế kỷ XIX .Ông k không chỉ nổi tiếng với “Truyện Kiều” mà ôngcòn là nhà thơ sáng tác bằng chữ Hán điêu luyện “Thanh Hiên thitập” là một trong những sáng tác bằng chữ Hán thể hiện tình cảmsâu sắc của Nguyễn Du với thân phận con người (nạn nhân củachế độ phong kiến).Trong đó, Độc Tiểu Thanh ký là một trong những sáng tác đưọcnhiều người biết đến, thể hiện sâu sắc tư tưởng Nguyễn Du vàlàm người đọc xúc động vì tình cảm nhân đạo cao cả của nhàthơ. Độc Tiểu Thanh ký có nghĩa là “đọc tập Tiểu Thanh ” củanàng Tiểu Thanh. Đó là người con gái có thật, sống cách NguyễnDu ba trăm năm trước ở đời Minh (Trung Hoa). Tương truyềnPhùng Tiểu Thanh là một cô gái Trung Quốc sống khoảng đầuthời Minh, nhiều ý kiến cho rằng nàng là người Dương Châu, connhà gia thế, tên chữ là Phùng Huyền Huyền . Vốn thông minh nêntừ nhỏ nàng đã thông hiẻu các môn nghệ thuật cầm kì thi hoạ, lạicó phong tư lộng lẫy hơn người. Năm 16 tuổi, nàng được gả làmvợ lẽ cho Phùng Sinh, một công tử nhà gia thế. Vợ cả tình hayghen lại cay độc, bắt nàng ra sống riêng trên Cô Sơn, gần TâyHồ. Vì đau buồn, nàng sinh bệnh rồi qua đời khi mới tròn mườitám xuân xanh. Nhưng đau khổ muộn phiền được gửi gắm vàothơ nhưng phần lớn bị vợ cả đem đốt hết, may mắn còn một sốbài sót lại. Người ta cho khắc in số thơ đó, đặt là Phần Dư.Thương xót, đồng cảm với số phận của người con gái tài tình màbạc mệnh, Nguyễn Du viết ra bài thơ này. Những người phụ nữcó tài có sắc nhưng đường đời truân chuyên bất hạnh cũng làcảm hứng lớn trong sáng tác của Nguyễn Du.Cảm hứng xuyên suốt toàn bài được diễn tả trong khuôn khổ côđúc của thể thơ Đường luật thất ngôn bát cú. Nguyễn Du khócngười cũng để tự thương mình. Dù là cảm xúc về một cuộc đờibất hạnh đã cách ba trăm năm, nhưng thực chất cũng là tâm sựcủa nhà thơ trước thời cuộc.Hai câu mở đầu của bài thơ giúp người đọc hình dung ra hìnhảnh của nhà thơ trong giờ phút gặp gỡ với tiếng lòng của TiểuThanh :Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khưĐộc điếu song tiền nhất chỉ thư(Tây hồ cảnh đẹp hóa gò hoangThổn thức bên song mảnh giấy tàn)Hai câu thơ dịch đã thoát lên ý nguyên tác nên làm giảm đi phầnnào hàm ý súc tích của câu thơ chữ Hán. Nguyễn Du khôngnhằm tả cảnh đẹp Tây Hồ mà chỉ mượn sự thay đổi của khônggian để nói lên một cảm nhận về biến đổi của cuộc sống. Cáchdiễn đạt vừa tả thực vừa gợi ý nghĩa tưọng trưng. “Tây hồ hoauyển” (vườn hoa Tây Hồ) gợi lại cuộc sống lặng lẽ của nàng TiểuThanh ở vưòn hoa cạnh Tây Hồ – một cảnh đẹp nổi tiếng củaTrung Hoa. Nhưng hàm ý tượng trưng được xác lập trong mốiquan hệ giữa “vườn hoa – gò hoang”. Dường như trong cảmquan Nguyễn Du, những biến thiên của trời đất đều dễ khiến ôngxúc động. Đó là nỗi niềm “bãi bể nương dâu” ta đã từng biết ởTruyện Kiều. Nhìn hiện tại để nhớ về quá khứ, câu thơ trào dângmột nỗi đau xót ngậm ngùi cho vẻ đẹp chỉ còn trong dĩ vãng.Trong không gian điêu tàn ấy, con người xuất hiện với dáng vẻ côđơn, như thu mọi cảm xúc trong hai từ “độc điếu”. Một mình nhàthơ ngậm ngùi đọc một tập sách (nhất chỉ thư). Một mình đối diệnvới một tiếng lòng Tiểu Thanh ba trăm năm trước, câu thơ nhưthể hiện rõ cảm xúc trang trọng thành kính của Tiểu Thanh. Đồngthời cũng thể hiện sự lắng sâu trầm tư trong dáng vẻ cô đơn.Cách đọc ấy cũng nói lên được sự đồng cảm của nhà thơ vớiTiểu Thanh, “điếu” là bày tỏ sự xót thương với người xưa. Khôngphải là tiếng “thổn thức” như lời thơ dịch, mà nước mắt lặng lẽthấm vào trong hồn nhà thơ.Hai câu thực đã làm sáng tỏ cho cảm giác buồn thuơng ngậmngùi trong hai câu đề :Chi phấn hữu thần liên tử hậuVăn chương vô mệnh lụy phần dư(Son phấn có thần chôn vẫn hậnVăn chương không mệnh đốt còn vương)Nhà thơ mượn hai hình ảnh “son phấn” và “văn chương” để diễntả cho những đau đớn dày vò về thể xác và tinh thần của TiểuThanh gửi gắm vào những dòng thơ. Theo quan niệm xưa, “sonphấn” – vật trang điểm của phụ nữ có tinh thần vì gắn với mụcđích làm đẹp cho phụ nữ. Cả hai câu thơ cùng nhằm nhắc lại bikịch trong cuộc đời Tiểu Thanh là một cuộc đời chỉ còn biết làmbạn với son phấn và văn chương để nguôi ngoai bất hạnh củamình .Mượn vật thể để nói về người. Gắn với những vật vô tri vô giác lànhững từ ngữ chỉ cho tính cách, số phận con người như “thần” và“mệnh”. Lối nhân cách hóa thể hiện rõ cảm xúc xót xa của nhàthơ về những bất hạnh của kiếp người qua số phận của TiểuThanh. Kết cục bi thảm của tiểu Thanh xuất phát từ sự ghentuông, lòng đố kỵ tài năng của người đời. Dù chỉ là những đồ vậtvô tri vô giác thì chúng cũng phải chịu số phận đáng thương nhưchủ nhân : son phấn bẽ bàng, văn chương đốt dở. Hai câu thơ đãgợi lên sự tàn hẫn của bọn người vô nhân trướ ...