Danh mục

Kiến thức lớp 10 Độc Tiểu Thanh Ký –Nguyễn Du-cảm nhận về bài thơ

Số trang: 9      Loại file: pdf      Dung lượng: 115.88 KB      Lượt xem: 9      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Phí tải xuống: 5,000 VND Tải xuống file đầy đủ (9 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Tham khảo tài liệu kiến thức lớp 10 "độc tiểu thanh ký" –nguyễn du-cảm nhận về bài thơ, tài liệu phổ thông phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kiến thức lớp 10 "Độc Tiểu Thanh Ký" –Nguyễn Du-cảm nhận về bài thơKiến thức lớp 10Độc Tiểu Thanh Ký –Nguyễn Du-phần 12Cảm nhận về bài thơ Độc Tiểu Thanh kýNguyễn Du đến với Tiểu Thanh cũng định mệnh nhưThuý Kiều đến với Đạm Tiên vậy. Ngày tết Thanh minhmà sao sắc xuân không đến với Đạm Tiên trên nấm cỏ :Sè sè nấm đất bên đường,Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.Sắc cỏ vàng úa giữa mùa xuân thật hợp cho cuộc gặp gỡgiữa hai con người có tên trong sổ đoạn trường. NguyễnDu với Tiểu Thanh không chỉ là sự cách biệt âm dương.Đó còn là sự cách biệt của khoảng cách thời gian vời vợi :ba trăm năm lẻ. Nhưng không phải vì có nhiều khoảngcách mà thiếu đi sự cảm thông. Độc Tiểu Thanh kí củaNguyễn Du chính là tiếng lòng vượt lên bao khoảng cáchđể mà cảm thông và thương xót cho một kiếp người.Nguyễn Du gặp gỡ Tiểu Thanh mà sao giống như cuộcgặp trong định mệnh. Đó là cuộc gặp gỡ giữa hai ngườitài hoa và đầy duyên nợ với văn chương :Tây Hồ cảnh đẹp hoá gò hoangThổn thức bên song mảnh giấy tànCảnh được tả thật hoang tàn. Nguyễn Du nhắc đến mộtđịa danh trong câu thơ thứ nhất : Tây Hồ (Tây Hồ thuộctỉnh Chiết Giang - Trung Quốc), nơi có núi Cô Sơn, chỗTiểu Thanh, một cô gái sắc tài nhưng bất hạnh từng sống.Một sự đổi thay được cảm nhận như là bước đi của lẽ đờidâu bể. Đó là sự đổi thay tuyệt đối từ quá khứ sang hiệntại, từ vườn hoa thành gò hoang và từ có đến không. Từtẫn trong nguyên bản hoa uyển tẫn thành khư gợi sựthay đổi dữ dội, khốc liệt : thay đổi hết, không còn chútdấu vết gì. Hoá ra câu thơ không phải nói lẽ đời dâu bể.Nguyễn Du đang thương cho cái đẹp bị dập vùi. Câu thơmới chỉ tả cảnh mà đã gợi đến bao nỗi xót xa. Toàn bộcâu chuyện đau thương năm xưa về nàng Tiểu Thanhhiện về. Câu thơ nói chuyện riêng tư nhưng cũng là nỗilòng nhân thế.Câu thơ thừa đề mới thực là cuộc gặp gỡ của Nguyễn Du:Độc điếu song tiền nhất chỉ thư(Chỉ viếng nàng qua một tập sách đọc trước cửa sổ)Khi còn sống, Tiểu Thanh có làm một tập thơ (Tiểu Thanhkí) để ghi lại nỗi xót xa, lẻ bóng của mình. Khi nàng tựvẫn, vợ cả đem ra đốt, may còn lại vài bài. Vậy ra cuộcviếng thương Tiểu Thanh không phải diễn ra tại Cô Sơn.Sự tiếc thương của Nguyễn Du đã vượt qua khoảng cáchthời gian, không gian (chỉ viếng nàng qua tập sách đốt còndang dở). Câu thơ tiếp tục khơi vào số phận bất hạnh củaTiểu Thanh. Phần dư cảo của Tiểu Thanh kí phải chăngcũng chính là cuộc đời tan vụn của nàng ? Tan vụn nhưngchưa vĩnh viễn mất đi, tan vụn nhưng vẫn còn vương lạiđể mà tiếp tục giận hờn oán trách.Tiểu Thanh đẹp mà bất hạnh, tài năng mà yểu mệnh. Đócó phải là số mệnh của những kẻ nhan sắc lại tài hoa ?Day dứt ấy ám ảnh Nguyễn Du cả một đời :Son phấn có thần chôn vẫn hận,Văn chương không mệnh đốt còn vương.Hai câu thơ khái quát lại nỗi oan trái của Tiểu Thanh. Sonphấn là nỗi oan của sắc. Văn chương là nỗi oan của tài.Hai vật vô tri được nhân cách hoá để có thần, có mệnh,làm nên cái thần, cái mệnh của Tiểu Thanh. Tập sách kiadẫu có bị đốt đi nhưng cuộc đời Tiểu Thanh vẫn luôn hiểnhiện để mà tiếp tục kêu than, đau đớn thay cho nhữngkiếp như mình. Hai câu thơ viết bằng cảm hứng xót xa vàngợi ca cái đẹp, cái tài.Bốn câu thơ sau là hai sự đổi thay về ý. Từ thương mộtngười con gái tài hoa, Nguyễn Du thương cho muôn kiếptài hoa ; từ thương người, Nguyễn Du ngậm ngùi trong nỗithương mình.Nỗi oan, nỗi hận của Tiểu Thanh được Nguyễn Du kháiquát thành nỗi hờn, nỗi oan của bao kẻ cùng hội cùngthuyền :Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,Cái án phong lưu khách tự mang.Câu thơ chất chứa bao nỗi hờn kim cổ thành một câu hỏilớn treo lơ lửng giữa không trung không lời đáp. Tại saokhách má hồng lại gặp nỗi truân chuyên ? Tại sao nhữngkẻ tài hoa lại hay yểu mệnh ? Câu thơ là nỗi lòng nhânthế, là những nghịch cảnh thường gặp trong cuộc đời :khách phong lưu lại phải oan, phải khổ. Câu hỏi nhưhướng vào vô vọng, không lời đáp. Nỗi hận, nỗi oan cũngvì thế mà càng nhức nhối.Sau này khi đến thăm chùa Tây Phương, Huy Cận cònnhìn thấy nỗi hờn của thời đại Nguyễn Du hiện trên mặttượng đầy bế tắc :Một câu hỏi lớn không lời đápCho đến bây giờ mặt vẫn chauHai câu luận còn là một sự nhập thân. Đó là sự nhập thântự nguyện của Nguyễn Du với những kiếp tài hoa bạcmệnh : Phong vận kì oan ngã tự cư. Chữ ngã ở đây cónghĩa là tôi, ta. Bản dịch, dịch thành khách là chưađạt. Nhưng cũng phải đến hai câu kết, chủ thể trữ tìnhmới hiện ra rõ nét :Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,Người đời ai khóc Tố Như chăng ?Hai câu cuối lạ, chuyển ý bất ngờ, niêm luật không chútrọng mà không lạc dòng cảm xúc. Ý tứ đến cũng tự nhiênvà hợp lí. Từ thương người, Nguyễn Du chuyển mạch đếnthương mình. Hai câu thơ kết cấu thành một câu hỏi. Câuhỏi hướng đến những điệu hồn tri âm. Không hỏi quá khứ,không hỏi hiện tại, vì quá khứ và hiện tại đều bế tắc. Câuhỏi hướng đến tương lai. Nguyễn Du cũng không hỏi trời,ông hỏi người vì còn mong ở đời có thể tìm thấy những triâm. Với nàng Tiểu Thanh, ba trăm năm sau đã có mộtNguyễn Du thổn thức, không biết với mình liệu ba trămnăm sau có ai biết đến mà cảm thông ? Câu thơ trĩu nặng.Hai từ bất tri (không biết) đầy tủi hổ tưởng có thể buôngxuôi. Nhưng câu thơ vẫn là một niềm tin. Nguyễn Du vẫntin ở nhân tâm của con người.Thơ hoài cổ thường là tiếng khóc dành cho những cốnhân. Thơ Nguyễn Du không hoàn toàn như vậy. Nhớđến, thương đến cố nhân, tác giả chạnh lòng thươngchính bản thân mình và những người nghệ sĩ. Nó chính làkhởi nguồn cho cảm hứng nhân văn cao cả của bài thơ.Độc Tiểu Thanh kí còn là sự day dứt cả đời của NguyễnDu. Đó là niềm day dứt của thi nhân về nỗi bấp bênh củathế thái nhân tình. Niềm day dứt ấy phải vì thế mà ôm trọnsự bế tắc của thời đại Nguyễn Du . ...

Tài liệu được xem nhiều: