Thông tin tài liệu:
Đau đớn thay phận đàn bà Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung. (Truyện Kiều)Nguyễn Du có mối đồng cảm đặc biệt đối với những người phụ nữ tài hoa bạc mệnh. Một Đạm Tiên, một Thúy Kiều, một “Long thành cầm giả ca”… đã làm xác động trái tim của nhân loại. Và đây là những giọt nước mắt của thi nhân nhỏ xuống số phận bi thảm của một cô gái tài hoa sống cách nhà thơ ba trăm năm, trong một bài thơ chữ Hán nổi tiếng “Độc Tiểu Thanh kí”....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kiến thức lớp 10 "Độc Tiểu Thanh Ký" –Nguyễn Du-nghị luận về tác phẩmKiến thức lớp 10Độc Tiểu Thanh Ký –Nguyễn Du-phần 3Nghị luận về bài Độc Tiểu Thanh Ký Đau đớn thay phận đàn bà Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung. (Truyện Kiều)Nguyễn Du có mối đồng cảm đặc biệt đối với những người phụnữ tài hoa bạc mệnh. Một Đạm Tiên, một Thúy Kiều, một “Longthành cầm giả ca”… đã làm xác động trái tim của nhân loại. Vàđây là những giọt nước mắt của thi nhân nhỏ xuống số phận bithảm của một cô gái tài hoa sống cách nhà thơ ba trăm năm,trong một bài thơ chữ Hán nổi tiếng “Độc Tiểu Thanh kí”. Ông cónỗi ám ảnh về những kiếp hồng nhan bạc mệnh, về những kiếpnghệ sĩ tài hoa và ông cũng muốn người đời sẻ chia với nhữngkiếp hồng nhan bạc mệnh: Hồ Tây cảnh đẹp hóa gò hoang, Thổn thức bên song mảnh giấy tàn. Son phấn có thần chôn vẫn hận. Văn chương không mệnh đốt còn vương. Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi, Cái án phong lưu khách tự mang. Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa, Người đời ai khóc Tố Như chăng?Có thể là bài thơ được Nguyễn Du viết vào thời gian đi sứ TrungQuốc, nhận đọc được một tập thơ của Tiểu Thanh (có ý kiến chorằng không phải là tập thơ mà là một tập truyện viết về TiểuThanh), một người con gái tài sắc mà bất hạnh sống vào đầu đờiMinh (Trung Quốc ). Tiểu Thanh làm lẽ, bị vợ cả ghen bắt ở ngôinhà riêng trên núi Cô Sơn, cạnh Tây Hồ. Nàng buồn mà chết lúcmới mười tám tuổi. Nàng có tập thơ bị vợ cả ghen đem đốt. Tậpthơ còn lại một phần và được người đời chép lại. Tập thơ cháydở (hay là đọc truyện mà biết được chi tiết này) của một ngườicon gái bạc mệnh đã xáo trộn tâm hồn nhà thơ: Hồ Tây cảnh đẹp hóa gò hoang, Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.Gò hoang chính là núi Cô Sơn, nơi cấm cố nàng Tiểu Thanh. Gòhoang bên cạnh cảnh đẹp Hồ Tây càng gợi nỗi thương tâm củathi nhân. Sự lãng quên của người đời cứ hiển hiện ra đấy. Ngồibên cửa sổ, nhà thơ thổn thức khi đọc tập thơ ( phần dư cảo )của Tiểu Thanh mà ông gọi là mảnh giấy tàn ( thực ra do cáchhiểu của người dịch mà thành ra “mảnh giấy tàn” chứ trongnguyên chữ “thư” có nghĩa là sách, có thể là thơ cũng có thể làtruyện). Văn chương cũng chịu số phận bi đát của hồng nhan.Cũng là mối tình, cũng là kẻ “cùng hội cùng thuyền”, nhà thơ cảmthấy xót thương cho Tiểu Thanh mà cũng là xót thương chonhững kiếp tài hoa bạc mệnh.Thổn thức trước những vần thơ bạc mệnh, trước kiếp tài hoa xấusố, nhà thơ suy tưởng về thân phận và tài hoa của nàng TiểuThanh: Son phấn có thần chôn vẫn hận Văn chương không mệnh đốt còn vương.Câu thơ “son phấn có thần chôn vẫn hận” nguyên văn chữ Hán là“chi phấn hữu thần liên tử hậu”. “Son phấn có thần” chắc phải xótxa vì những việc sau khi chết. Trần Trọng San dịch hơi khác VũTam Tập, ông dịch là “son phấn có tinh anh nên khi chết rồi vẫncòn có người thương xót”. Do câu trúc đa nghĩa của thơ mà cónhiều cách dịch khác nhau như vậy và cũng khiến cho thơ đầy bímật. trong những vật gắn liền với người con gái, Nguyễn Du đãchọn son phấn và ông đã nhân cách hóa son phấn để suy tưởng.“Son phấn có thần” chắc phải xót xa vì nó đã gắn bó với ngườicon gái bạc mệnh. Thật ra là một cách nhà thơ thương xót, hậncho Tiểu Thanh. Văn chương làm gì có “mệnh” mà cũng bị đốt, bịlụy. Từ “lụy” trong nguyên tác rất hay, diễn tả được nỗi oan củavăn chương mà cũng chính là nỗi oan khuất của kẻ tài hoa.Chuyển sang hai câu luận, nhà thơ triết lí về thân phận bé nhỏcủa con người và cảm thấy đau đớn, xót xa cho Tiểu Thanh, chochính mình: Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi, Cái án phong lưu khách tự mang.Nỗi đau của Tiểu Thanh nằm trong nỗi đau lớn của nhân loại. Mànỗi hận của người đời xưa nay không thể hỏi trời được: Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi (Cổ kim hận sự thiên nan vấn)Câu thơ nguyên tác, với những thanh trắc: (cổ, hận, sự, vấn) diễntả một cách bi phẫn nỗi đau của những kiếp người thấp cổ béhọng. Nguyễn Du đau đớn, căm giận trước sự thất bại của cáiTHIỆN, cái MĨ trước cái ác. Nhà thơ tự thấy là người cùng hội vớikẻ mắc nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã: Cái án phong lưu khách tự mang (Phong vận kì oan ngã tự cư)Chữ “ngã” rất lạ. Nhà thơ đã tự xưng “ ngã” ( tôi) để nhập thânvào với Tiểu Thanh như trong “ Truyện Kiều” để gợi lên nhữngđiều nhức nhối của nhân thế.Đau đớn trước nỗi oan kì lạ của Tiểu Thanh, xót xa trước sự lãngquên của người đời , nhà thơ khóc cho Tiểu Thanh, một co gái tàihoa bạc mệnh hơn ba trăm năm và đặt câu hỏi lớn cho ba trămnăm sau: Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa, Người đời ...