“Công danh đã được hợp về nhàn, Lành dữ ân chi thế nghị khen Ao cạn vớt bèo cấy muống, Đìa thanh phát cỏ ương sen Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc, Thuyền chở yên hà nặng vạy then Bui có một lòng trung lẫn hiếu, Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen”.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kiến thức lớp 10 Nguyễn Trãi –phân tích bài thuật hứngKiến thức lớp 10Nguyễn Trãi –phần2 PHÂN TÍCH BÀI THƠ THUẬT HỨNG SỐ 24 CỦA NGUYỄN TRÃI“Công danh đã được hợp về nhàn,Lành dữ ân chi thế nghị khenAo cạn vớt bèo cấy muống,Đìa thanh phát cỏ ương senKho thu phong nguyệt đầy qua nóc,Thuyền chở yên hà nặng vạy thenBui có một lòng trung lẫn hiếu,Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen”.BÀI LÀMNguyễn Trãi (1380-1442) là ngôi sao Khuê lấp lánh trên bầu trờiĐại việt trong thế kỷ 15. “Quốc âm thi tập” và “Ức trai thi tập” làhai kiệt tác trong nền thơ ca Việt Nam. Riêng “Quốc âm thi tập” –là một tập thơ viết bằng chữ Nôm ra đời sớm nhất mà ta còn giữđược gồm 254 bài – ó như ánh hào quang củ ngôi sao Khuê lấplánh xuyên suốt hành trình thiên niên kỷ của dân tộc.“Quốc âm thi tập” nhìn chung không có tên bải riêng cho mỗi bàithơ. Nguyễn Trãi nhóm thành nhiều chùm thơ: Ngôn chí, Mạnthuật, Trần tình, Thuật hứng, Tự thán, Tức sự, Bảo kính cảnhgiớ.v.v… Đây là bài thơ số 24 trong chùm thơ “Thuật hứng” 25bài:“Công danh đã được hợp về nhàn,…………………………………Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen”.“Hợp” nghĩa là “nên”, là “đáng”; “âu chi” nghĩa là “lo chi” NguyễnTrãi là cháu ngoại tướng công Trần Nguyên Đán, đã từng đỗ Tháihọc sinh (Tiến sĩ). Ông là mưu sĩ của Lê Lợi trong 10 năm khángchiến chống giặc Minh “viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết mọithời”, từng làm chánh chủ khảo khoa thi Tiến sĩ đầu tiên của triềuLê. Ông là người anh hùng dân tộc văn võ song toàn, đúng là“công danh đã được”. Về sau, ông bị bọn nịnh thần chèn ép.“Lưng khôn uốn, lộc nên từ”, ông đã vứt bỏ mọi công danh, tựdăn lòng mình: “hợp về nhàn”, nên về Côn Sơn ở ẩn, sống cuộcđời thanh nhàn chan hoà với tạo vật.Câu thơ thứ hai nói lên thái độ, cách ứng xử của Nguyễn Trãi:chẳng quan lâm gì trước mọi chuyện thị phi “lành dữ”, khen chênữa. Mọi sự đánh giá sẽ do lịch sử, cần chi phải mệt lòng trăntrở. Đó là thái độ đúng, là khí tiết của kẻ sĩ khi đã thoát vòng danhlợi, lui về suối rừng ở ẩn. Trong bài thơ “Cuối xuân tức sự”, ôngcó viết:“Suốt ngày nhàn nhã khép phòng văn,Khách tục không ai bên mảng gần”.Một giọng thơ đủng đỉnh, khoan thai phản ánh một cuộc đời ungdung, tự tại. Hai câu trong phần “thực” nói lên nhịp điệu cuộcsống của Ức Trai khi đã “về nhàn”:“Ao cạn vớt bèo cấy muống.Đìa thanh phát cỏ ương sen.”Mỗi câu thơ chỉ có 6 từ (lục ngôn). Cấu trúc câu thơ cân xứngcho thấy phép đối được vận dụng thần tình. “Ao cạn” với “đìathanh”, “vớt bèo cấy muống” với “phát cỏ ương sen” đối nhauchặt chẽ làm hiện len một cuộc đời cần mẫn, thanh bạch đáng tựhào. Cuộc sống chẳng có sơn hào hải vị, chỉ có “muống”, có “sen”rất bình dị mà thanh cao. Lúc ở triều đình, chức trọng quyền cao,trước sau Nguyễn Trãi vẫn chỉ là một ông quan thanh liêm:“Một tấm lòng son ngời cửa luyệnMười năm thanh chức ngọc hồ băng”.(Mạn hứng – 2)Nhiều bài thơ Nguyễn Trãi nói về cuộc sống đạm bạc, giản dị củaminh: “Đọc sách mười năm mà kiết xác – Ăn tràu rau muốngchẳng chiên ngồi” (Gửi bạn). Cuộc đời một ông quan, một kẻ sĩmà chẳng khác nào cuộc đời người dân quê: “Cơm ăn chẳngquản dưa muối – áo mặc nài chi gấm thêu …” (Thuật hứng – 22).Hai câu tiếp theo trong phần “luận”, ý thơ được mở rộng làm rõthêm vẻ đẹp tâm hồn của Ức Trai. Thi liệu mang đậm màu sắcước lệ cổ điển đầy thi vị:“Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc,Thuyền chở yên hà nặng vạy then”.Lấy “phong, nguyệt” làm bầu bạn, lấy “yên, hà” làm nguồn vuimấy ai trong thiên hạ có đời sống tinh thần phong phú và thanhcao như Ức Trai? Phép đối và biện pháp tu từ thậm xưng diễn tảchiều sâu một tâm hồn, cái cao sang của một nếp sống đẹp. Cảba tháng mùa thu với Ức Trai là một cái kho chứa đầy gió trăngđến tận nóc. Con thuyền của thi nhân suốt đêm ngày chỉ chở khóráng thế mà cũng làm oằn đi những chiếc thang thuyền. Phongnguyệt, yên hà là những thứ chỉ có thể nhìn thấy, cảm thấynhưng qua các hình ảnh: “kho thu”, “thuyền chở” và các từ ngữ:“đầy”, “nặng” – tác giả đã “khối lượng hóa” các hiện tượng thiênnhiên ấy một cách tài tình. Chữ dùng chính xác, chọn lọc và hìnhtượng. Chỉ một chữ “đầy” trong thơ Ức trai mà ta liên tưởng đếnbao câu thơ đẹp khác: “Gió, trăng chứa một thuyền đầy - của khovô hạn biết ngày nào vơi “Nguyễn Công Trứ; “Dạ bán quy lainguyệt mãn thuyền” (Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền) -Hồ Chí Minh, v.v…Có thể nói, hai câu trong phân luận là hai câu thơ hay nhất, nócho thấy một hồn thơ thanh cao, một cuộc sống tinh thần giàuđẹp, ung dung, hồn nhiên, tự tại của ức Trai chan hòa với thiênnhiên, tạo vật.Hai câu kết là lời tự bạch: Nguyễn Trãi bộc lộ tấc lòng mình, tấmlòng mình:“Bui có một lòng trung lẫn hiếu,Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen”.“Bui” là tiếng cổ, nghĩa là “chỉ”; “bui có” là chỉ có. Một cách nóikhiêm tốn mà khẳng định, biểu lộ niềm tự hào về lòng trung hiếucủa mình đối vớ ...