Bị bán vào nhà chứa của mụ Tú Bà. Thúy Kiều rút dao tự vẫn nhưng không chết. Đạm Tiên báo mộng số nàng chưa thoát kiếp đoạn trường. Mụ Tú Bà cho Kiều ra ở lầu Ngưng Bích. Mắc lừa Sở Khanh, bị Tú Bà bắt về đánh đập dã man, buột Kiều phải tiếp khách. Đoạn trích này bắt đầu từ đó ( Câu 1229 đến câu 1248).
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kiến thức lớp 10 Truyện Kiều - Nguyễn Du-đoạn trích kiều ở lầu Ngưng BíchKiến thức lớp 10Truyện Kiều - Nguyễn Du-phần 111.Vị trí đoạn trích.Bị bán vào nhà chứa của mụ Tú Bà. Thúy Kiều rút dao tự vẫnnhưng không chết. Đạm Tiên báo mộng số nàng chưa thoát kiếpđoạn trường. Mụ Tú Bà cho Kiều ra ở lầu Ngưng Bích. Mắc lừaSở Khanh, bị Tú Bà bắt về đánh đập dã man, buột Kiều phải tiếpkhách. Đoạn trích này bắt đầu từ đó ( Câu 1229 đến câu 1248).2. Bố cục :hai đoạn+ Đoạn một, mười câu đầu: Cảnh sống ô nhục ở lầu xanh và tâmtrạng đau đớn, tủi nhục của Thúy Kiều.+ Đọan hai, còn lại: Thái độ thờ ơ của Thúy Kiều trước cảnh, thúvui ở lầu xanh, ý thức về nhân phẩm của nàng.II. Đọc – hiểu1. Cảnh sống ở lầu xanh- Trong mười câu thơ đầu, có tới 4 câu tác giả miêu tả cảnh sốngở lầu xanh:Biết bao bướm lả ong lơiCuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêmDập dịu lá gió cành chimSớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng KhanhBiết bao : diễn tả sự việc xảy ra thường xuyên, rất nhiều khôngthể tính được. Sau từ “biết bao” là cuộc sống xô bồ, trác tác “cuộcsay đầy tháng”, “trận cười suốt đêm”. “Trận cười” chứ không phảitiếng cười. Đó là cái cười khả ố, tiếng cười khả ố, tiếng cười củakẻ thỏa mãn trong sắc dục, dâm dật đến điên lọan.- Cái tài của Nguyễn Du là sử dụng các thành ngữ và tách thànhngữ để mang sắc điệu riêng: “ong bướm lả lơi” thành “bướm lả,ong lơi” gây ấn tượng về sự giao tình ở chốn lầu xanh mụ Tú Bà.- Hình ảnh “lá gió cành chim” giúp người đọc có sự liên tưởng: Láđón gió, cành đón chim như thân phận của con gái làm nhữngviệc đưa và đón, sớm và tối. Nhục nhã bao nhiêu khi thể xác bịdày vò. Nhịp thơ diễn tả sự buông thả thân xác người con gái,mặc cho khách làng chơi tha hồ đùa cợt.Chỉ bốn câu thơ mà cuộc sống ở lầu xanh hiện ra mồn một.Trong dòng chảy đục ngầu những dơ bẩn của nhà chứa. Thái độThúy Kiều như thế nào?- Diễn tả nổi thương mình của Thúy Kiều:“Khi tỉnh rượu lúc tàn canh… ong chường bấy thân”Đây là 6 câu thơ diễn tả nỗi đau đớn đến tê đi tái lại:“Khi tỉnh rượu lúc tàn canhGiật mình mình lại thương mình xót xa”Chỉ khi “tỉnh rượu”, “tàn canh”, Kiều mới được sống với chínhmình. Đấy là lúc nàng “giật mình” xót xa vì thân xác bị dày vò,thảm hại.- Ba tiếng mình trong câu tám cũng để chỉ một Thúy Kiều, diễnđạt nỗi đau mất mát chỉ mình mình biết, chỉ mình mình hay. Nỗiđau chỉ mình biết thôi đau lắm, xót lắm. Nó không thể san sẻcùng ai. Đây cũng là biệt tài của Nguyễn Du trong việc sử dụng từngữ.Từ nỗi đau của thân phận, lời thơ bật lên những câu hỏi:“Khi sao phong gấm rả là…Giờ tan tác như hoa giữa đườngMặt sao dày gió dạn sươngThân sao bướm chán ong chường bấy thân”- Những từ ngữ sóng đôi khi/giờ, mặt/thân đặt trong những câuhỏi: Khi sao? Giờ sao? Mặt sao? Thân sao?Cả quá khứ và hiện tại, cả đời sống tinh thần và thân xác, tất cảđem đến cho người đọc hai đọan đời và muôn nỗi tái tê.- Thúy Kiều ý thức được về thân phận của mình qua liên tưởng“tan tác như hoa giữa đường”. Đời nàng, thân phận nàng lúc nàynhư bông hoa rụng vứt giữa đường bị bao bước chân vô tìnhxéo, đap không thương tiếc.- Nguyễn Du đã sử dụng những thành ngữ và tách thành nhữngcâu riêng:+ “Gió sương dày dạn” : dày gió, dạn sương diễn tả sự chai lìkhông còn biết gì là xấu hổ nữa.+ “Ong bướm chán chường” : “Bướm chánong chường” diễn tảsự ê chề mỏi mệt đến chán chường của thân xác và tinh thần củaThúy Kiều. Đời nàng lại đến như thế ư? Thúy Kiều đã ý thứcđược tất cả càng thấy thương mình. Ơû đây có nỗi đau của thânphận, nỗi đau thay đổi giá trị con người. Kiều càng thấy thươngthân, tiếc thân. Đây thực chất là những tiếng kêu vút lên từ ngụctối nhà chứa. Nó đòi quyền sống quyền hạnh phúc cho conngười. Vì thế thế đọan trích góp phần làm nên giá trị nhân đạocủa “Truyện Kiều”.2. Thái độ của Kiều trước thú vui của khách- Cách chiêu hàng của mụ Tú Bà thể hiện rất rõ:“Lầu xanh mới rủ chướng đàoCàng treo giá ngọc càng cao phẩm người”Ơû đó có nhiều phong cảnh đẹp:“Đôi phen gió tự hoa kềNửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu”Câu thơ miêu tả vẻ đẹp đặc trưng của bốn mùa xuân, hạ thu,đông. Mùa xuân có hoa, mùa hạ có gió mát, mùa thu có trăngtrong trẻo, mùa đông có tuyết. Đó là vẻ đẹp của phong hoa tuyếtnguyệt.- Đến các thú vui:“Đôi phen nét vẽ câu thơCung cầm trong nguỵêt nước cờ dưới hoa”Đó là thú cầm, kì, thi, họa. Thúy Kiều biết tất cả đấy. Nhưng tháiđộ của nàng hoàn toàn khác.Nàng thờ ơ với tất cả. Cách kể và miêu tả của Nguyễn Du rất rõràng mạch lạc. Người đọc nhận ra thái độ ấy:“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầuNgười buồn cảnh có vui đâu bao giờ”Cái buồn của con người đã lây sang cả cảnh vật. Buồn như thếnàng vui làm sao được. Nàng phó mặc cho khách làng chơi:“Mặc người mưa Sở mây Tần“Những mình nào có biết xuân là gì”Mây mưa là chỉ sự ái ân của trai gái, xuân ám chỉ sự vui thú. Mặc ...