Thông tin tài liệu:
Lịch sử Viral Marketing Năm 1996 trong bài báo ‘The virus of marketing’1 trên tạp chí Fast companycủa giáo sự Jeffrey Rayport trường Harvard đã đề cập đến một kỹ thuật marketing, mà sự lan truyền của thông điệp giống như sự lây nhiễm của những virus ông gọi kỹ thuật đó là viral marketing hoặc v-marketing.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kiến thức Marketing: Lịch sử Viral Marketing và quy trình Viral Marketing Campain chuẩn
Kiến thức Marketing: Lịch sử Viral Marketing
và quy trình Viral Marketing Campain chuẩn
Lịch sử Viral Marketing
Năm 1996 trong bài báo ‘The virus of marketing’1 trên tạp chí Fast companycủa
giáo sự Jeffrey Rayport trường Harvard đã đề cập đến một kỹ thuật marketing, mà
sự lan truyền của thông điệp giống như sự lây nhiễm của những virus ông gọi kỹ
thuật đó là viral marketing hoặc v-marketing. Những virus lây lan từ người này
sang người khác, họ hoàn toàn bị động tiếp nhận nó hoặc bị nó xâm nhập. Các
thông điệp marketing cũng được lan truyền theo cách như vậy từ người này tới
người khác, vì tính thú vị, độc đáo, mới lạ của thông điệp marketing mà những
người đã xem nó không thể không chia sẻ cho người khác, hay nói cách khác là
làm cho người khác bị lây nhiễm. Dưới dạng những sự trải nghiệm thú vị của
người này chia sẻ cho người khác. Những virus gây bệnh cần có thời gian để ủ
bệnh, khi lượng virus đã đủ để gây bệnh thì lúc đó cơ thể vật chủ mới phát bệnh.
Cũng giống như hoạt động của các virus mà tốc độ lan truyền của thông điệp
marketing sẽ chậm trong thời gian đầu, sau đó tốc độ này tăng dần và trở nên bùng
nổ.
Thuật ngữ sau đó được phổ biến rộng hơn vào năm 1997 bởi Tim Draper và Steve
Jurvetson, những người sáng lập hãng Draper Fisher Jurvetson trong bài báo ‘Viral
marketing phenomenon explained’2 – Giải thích hiện tượng Viral marketing đăng
trên trang web www.dfj.com để miêu tả sự bùng nổ dịch vụ thư điện tử Window
Live Hotmail của chính hãng này.
Hotmail là dịch vụ thư điện tử lớn nhất thế giới, có số người đăng kí ban đầu nhanh
hơn bất kì công ty nào trong lịch sử thế giới. Trong vòng hơn một năm số người
đăng kí sử dụng dịch vụ của Hotmail tăng từ 0 cho đến 12 triệu lượt, trung bình có
150.000 lượt đăng kí mỗi ngày, bảy ngày mỗi tuần. Với chi phí chưa đến 500.000$.
Theo phân tích của Draper và Juvetson thì viral marketing là hình thức marketing
mà người tiêu dùng là đối tượng tham ra trực tiếp vào quá trình lan truyền thông
tin, quảng bá sản phẩm, và bán hàng thông qua mạng internet. Như trường hợp của
Hotmail, những người dùng Hotmail đều gửi email cho bạn bè, người quen, đối tác
để giao dịch và giữ liên lạc với nhau. Thông qua đó họ đã gửi tới người thân, bạn
bè, đối tác của mình dịch vụ của Hotmail, kèm theo một sự khẳng định ngầm về độ
tin cậy của dịch vụ (vì chính người đó đang sử dụng). Mặt khác trên mỗi email như
thế lại có những nút ‘dùng email miễn phí với Hotmail’ để những người nhận được
email từ bạn mình có thể đăng kí sử dụng dịch vụ một cách dễ dàng. Tương tự là
dịch vụ gửi quà của iShip.com hay dịch vụ gửi tặng sách của Amazon.com. Trên
mỗi sản phẩm được giao bởi iShip hay Amazon đều kèm theo một phiếu giới thiệu
về công ty, dịch vụ, những lợi ích mang lại cho khách hàng.
Viral marketing là sự lan truyền những thông điệp marketing kèm theo sự bảo đảm
của người gửi, về chất lượng của sản phẩm và dịch vụ. Dựa vào mức độ thân thiết
của các mối quan hệ trong xã hội. (Việc nhận email, hoặc quà tặng từ bạn mình
cho dễ làm người tiêu tin tưởng hơn việc nhận được thông điệp đó từ tờ rơi hoặc
email được gửi trực tiếp từ công ty). Việc lan truyền thông điệp được thực hiện chủ
yếu bởi người tiêu dùng và thông qua mạng internet do đó doanh nghiệp có thể hạn
chế chi phí marketing tới mức thấp nhất.
“Viral marketing miêu tả bất cứ chiến lược nào mà khuyến khích các cá nhân
truyền một thông điệp marketing tới những người khác, tạo ra tiềm năng cho sự
tăng trưởng theo hàm số mũ của tin nhắn và ảnh hưởng của nó tới người nhận.
Cũng giống như virus, những chiến lược như vậy tận dụng các phép nhân nhanh
chóng làm bùng nổ tin nhắn từ hàng ngàn, đến hàng triệu”3. Nếu hai cách hiểu trên
coi viral marketing là sự lan truyền các thông điệp marketing một cách tự phát do
những người tiêu dùng sản phẩm hoặc dịch vụ thực hiện. Thì cách hiểu này nhấn
mạnh vào yếu tố khuyến khích các cá nhân lan truyền thông điệp marketing.
Doanh nghiệp phải chủ động có những hành động để khuyến khích, động viên
người tiêu dùng gửi đi thông điệp đó cho những người khác. Cụ thể như tặng quà,
hoặc phiếu giảm giá hoặc vé tham dự một sự kiện nào đó do doanh nghiệp tổ chức
cho những ai gửi được nhiều thông điệp nhất.
Vậy một cách chung nhất có thể hiểu viral marketing là một kỹ thuật marketing.
Mà khuyến khích các cá nhân truyền một thông điệp marketing tới những người
khác trong môi trường kĩ thuật số. Quá trình đó diễn ra liên tục, cứ một người nhận
được thông điệp sẽ truyền lại cho nhiều người khác, dựa vào công nghệ kỹ thuật số
tạo ra tiềm năng cho sự tăng trường và ảnh hưởng theo hàm số mũ của thông điệp
tới những người tiêu dùng khác.
Chia sẻ thông tin là nhu cầu không thể thiếu của con người, họ chia sẻ với nhau đủ
loại thông tin, từ những thông tin liên quan đến công việc, giải trí, hay về gia đình.
Do đó nếu một thông tin, gây ra sự chú ý cho một người và nếu người đó cảm thấy
muốn chia sẻ thông ...