Thông tin tài liệu:
Ngày nay hầu hết các công ty hay tổ chức kinh doanh lớn đều có nhiều thương hiệu khác nhau. Thuật ngữ “Kiến trúc thương hiệu” (brand architecture) chỉ sử dụng trong bối cảnh một tổ chức kinh doanh quản lý nhiều thương hiệu khác nhau (có thể dịch là “phương pháp quản trị đa thương hiệu”).
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kiến trúc thương hiệu - Phương pháp quản trị đa thương hiệu
Kiến trúc thương hiệu - Phương pháp quản trị đa thương
hiệu
Ngày nay hầu hết các công ty hay tổ chức kinh doanh lớn đều có nhiều thương hiệu
khác nhau. Thuật ngữ “Kiến trúc thương hiệu” (brand architecture) chỉ sử dụng trong
bối cảnh một tổ chức kinh doanh quản lý nhiều thương hiệu khác nhau (có thể dịch là
“phương pháp quản trị đa thương hiệu”).
Chẳng hạn hệ thống khách sạn Marriott có ít nhất bốn thương hiệu chính: Marriott
Residence Inn, Mariott Hotels, Resort & Suites, Courtyard by Marriott, và Fairfield Inn
by Marriott. Khi muốn xâm nhập thị trường khách sạn cao cấp, Marriott mua lại hệ
thống khách sạn Ritz-Carlton nhưng thận trọng không gắn vào đó thương hiệu
Marriott (vốn không định vị là hệ thống khách sạn sang trọng nhất) mà tiếp tục duy trì
thương hiệu Ritz-Carlton. Courtyard by Marriott xuất hiện năm 1983 nhắm vào khách
hàng chính là các thương nhân tại khu vực ngoại thành. Fairfield Inn xuất hiện năm
1987 nằm trong khi vực ngoại thành nhưng sát với các xa lộ lớn và tập trung vào đối
tượng khách hàng là gia đình.
Công ty P&G trong thị trường dầu gội đầu cũng phải quản trị nhiều thương hiệu:
Head&Shoulder tập trung vào thị trường dầu gội chống gầu, Pert Plus là dầu gội kết
hợp với dầu xả, Pantene là dầu gội theo kiểu mỹ phẩm, làm tóc óng đẹp.
Vấn đề mấu chốt trong quản trị đa thương hiệu là làm thể nào để có thể tiếp cận các
phân khúc thị trường mới, giới thiệu sản phẩm mới mà không chịu sự rủi ro và tốn
kém khi phải tạo ra các thương hiệu mới. Nhưng đôi khi chiến lược kinh doanh đòi
hỏi phải sử dụng các thương hiệu khác nhau cho các khúc thị trường khác nhau. Do đó,
vấn đề quản trị đa thương hiệu được đặt ra cho các nhà quản lý. Theo giáo sư David
A. Aaker, kiến trúc thương hiệu là công cụ được sử dụng để tạo ra tổng lực, sự phân
vài minh bạch giữa các thương hiệu cụ thể, và tạo sức nâng cho thương hiệu. Cụ thể
hơn, kiến trúc thương hiệu là một cấu trúc nhằm tổ chức các thương hiệu nằm chung
trong một danh mục với mục đích xác định rõ vai trò của từng thương hiệu, mói quan
hệ giữa các thương hiệu (ví dụ quan hệ giữa Ford và thương hiệu xe Taurus), cũng
như quan hệ giữa các thương hiệu trên thị trường sản phẩm (ví dụ quan hệ giữa Nike
châu Âu và Nike Hoa Kỳ, Sony Theaters và Sony Television).
Có thể tóm tắt các mục tiêu chính trong việc quản trị đa thương hiệu như sau:
1. Tạo ra những thương hiệu mạnh, có hiệu quả.
2. Phân phối nguồn lực hợp lý trong việc xây dựng các thương hiệu khác nhau (ví dụ
chi nhiều tiền quảng cáo hơn cho các thương hiệu chiến lược).
3. Tạo sức cộng lực, tránh gây các ấn tượng thương hiệu hỗn loạn trong đầu khách
hàng.
4. Cung ứng sản phẩm/dịch vụ có chân dung thương hiệu (brand indentity) rõ ràng,
giúp các công ty bán lẻ, công ty quảng cáo, phương pháp trưng bày trong tiệm, hiểu rõ
các mối quan hệ giữa các thương hiệu của cùng một công ty, do đó có thể tạo ra chiến
lược kinh doanh phù hợp
5. Nâng cao giá trị của thương hiệu (brand equity)
6. Tạo ra nguồn lực cho sự phát triển trong tương lai (thâm nhập vào các thị trường
mới/phát triển kịp thời các sản phẩm mới).
Để tổ chức thành công mối quan hệ hỗ tương giữa các thương hiệu, nhà quản lý cần
quan tâm đến năm nhân tố chính:
1. Danh mục thương hiệu (brand portfolio)
2. Vai trò cụ thể của các thương hiệu trong danh mục
3. Vai trò của các thương hiệu trong bối cảnh thị trường-sản phẩm
4. Cấu trúc danh mục thương hiệu
5. Chiến lược mở rộng thương hiệu
Danh mục thương hiệu bao gồm tất cả thương hiệu chính, thương hiệu phụ và đồng
thương hiệu. Ví dụ chúng ta có thể lập danh mục của công ty xe hơi Toyota như sau:
Toyota Corolla, Toyota Corolla Altis, Toyota Camry, Toyota Avalon, Toyota Celica,
Toyota Camry Sedan, Toyota Vios, Lexus LS, Lexus GS, Lexus ES, Lexus SC. Trong
trường hợp Toyota Camry thì Toyota đóng vai trò thương hiệu chính và Camry đóng
vai trò thương hiệu phụ. Khi Sony liên kết với Ericsson tung ra sản phẩm điện thoại di
động mang thương hiệu Sony-Ericsson thì đó là trường hợp đồng thương hiệu.
Vấn đề chủ chốt của nhà quản trị đa thương hiệu chính là biết ấn định vai trò cụ thể
cho từng thương hiệu trong danh mục và xây dựng mối quan hệ hài hòa giữa các
thương hiệu, tránh không tạo ra ấn tượng lộn xộn trong đầu những khách hàng mục
tiêu: thương hiệu nào đóng vai trò thương hiệu chiến lược ? Thương hiệu nào đóng
vai trò thương hiệu mũi nhọn ? Thương hiệu nào đóng vai trò thương hiệu phụ ?
Thương hiệu nào không cần được đầu tư nhiều tiền bạc để quảng cáo ?
Trở lại trường hợp Toyota: thương hiệu Camry được xem là “con bò sữa hái ra
tiền” cho toàn bộ công ty nhờ chiếm lĩnh một thị phần xe hơi loại trung cấp và thị
trường này khá ổn định nên không cần phải chi nhiều tiền cho công tác quảng cáo,
nhưng nó chỉ là thương hiệu phụ so với thương hiệu chính là Toyota. Lexus đóng vai
trò một thương hiệu độc lập với Toyota yểm trợ đằng sau với tư cách thương hiệu
bảo trợ và mục tiêu chính trong việc xây dựng thương hiệu Lexus là cạnh tranh với
thương hiệu Mercedes-Benz trong việc giành thị trường xe hơi cao cấp. Slates là
thương hiệu chiến lược của Levi Strauss vì nó đặt nền tảng cho phép Levi Strauss tái
định vị trong lĩnh vực cung cấp các chủng loại quần áo đàn ông mặc trong khi làm việc
tại công sở hay trong những môi trường thoải mái, không phải ăn mặc trịnh trọng.
Thương hiệu Nike All Conditions (ACG) đóng vai trò thương hiệu chiến lược tạo nền
tảng cho phép Nike tái định vị trong thị trường cung cấp dịch vụ du ngoạn/giải trí
ngoài trời, thay vì chỉ giới hạn trong phạm vi sản xuất giày thể thao. IBM ThinkPad
của công ty IBM đóng vai trò “viên đạn bạc” vì mục tiêu chủ yếu của sản phẩm này
nhằm chứng minh và đánh bóng khả năng kỹ thuật cao của IBM trong thị trường
laptop. Hilton Rewards đảm nhiệm chức năng thương hiệu mũi nhọn (linchpin brand)
của tập đoàn Hilton Hotels vì nó tượng trưng cho khả năng khống chế một thị phần
quan trọng trong thị trường kinh doanh khách sạn và có ...