Kinh nghiệm dân gian phòng chống bệnh tảBệnh tả không thường gặp, nhưng khi đã gặp thì rất dễ phát sinh thành dịch, thậm chí đại dịch, cho nên căn bệnh này được coi là một trong những bệnh truyền nhiễm tối nguy hiểm. Trong y học cổ truyền, bệnh tả thuộc phạm vi chứng hoắc loạn, được chẩn trị bằng nhiều phương pháp khác nhau, trong đó có việc vận dụng những kinh nghiệm dân gian hết sức phong phú. Phương pháp dùng thuốc Bài 1: Cát căn 15g, hoàng cầm 12g, hoàng liên 6g, cam thảo 5g, ngô...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kinh nghiệm dân gian phòng chống bệnh tả Kinh nghiệm dân gian phòng chống bệnh tảBệnh tả không thường gặp, nhưng khi đã gặp thì rất dễ phát sinh thành dịch, thậmchí đại dịch, cho nên căn bệnh này được coi là một trong những bệnh truyền nhiễmtối nguy hiểm. Trong y học cổ truyền, bệnh tả thuộc phạm vi chứng hoắc loạn, đượcchẩn trị bằng nhiều phương pháp khác nhau, trong đó có việc vận dụng những kinhnghiệm dân gian hết sức phong phú.Phương pháp dùng thuốcBài 1: Cát căn 15g, hoàng cầm 12g, hoàng liên 6g, cam thảo 5g, ngô thù du 3g, ý dĩ 30g,sắc uống. Dùng cho bệnh thuộc thể nhiệt biểu hiện bằng các triệu chứng thông thường cókèm theo phát sốt, họng khô miệng khát, tâm phiền, trong ngực rạo rực không yên, đaubụng, chất thải nặng mùi, tiểu tiện sẻn đỏ, rêu lưỡi vàng bẩn... Nếu bị chuột rút gia thêmmộc qua 12g, bạch thược 15g, nôn nhiều gia trúc nhự 10g, bán hạ chế 10g.Bài 2: Thái tử sâm 30g, mạch môn 15g, bạch thược 15g, ngũ vị tử 15g, hoàng liên 6g,biển đậu 10g, chích thảo 10g, ý dĩ 30g, sắc uống. Dùng cho trường hợp mất nước nhiều,nếu khí hư nhiều (mệt lả, huyết áp tụt) gia hoàng kỳ 30g, chuột rút gia mộc qua 10g, khátnhiều gia cát căn 15g, ô mai 15g; đi ngoài quá nhiều gia thạch lựu bì 15g.Bài 3: Thái tử sâm 25g, mạch môn 12g, thạch hộc 12g, ô mai 15g, trúc diệp 10g, lá sen10g. Dùng cho thời kỳ hồi phục, nếu có sốt gia thạch cao 30g, tiểu tiện bất lợi gia phụclinh 10g, ăn kém gia mạch nha, cốc nha và sơn tra sao đen 30g.Bài 4: Gừng tươi nướng cháy vỏ 8g, riềng sao 12g, củ sả sao 12g, nụ sim 8g (hoặc búp ổisao 12g), sắc với 500ml nước còn 200ml chia uống 2 lần trong ngày. Hoặc nụ sim 8g,búp ổi 60g, riềng 20g, tất cả sao vàng tán bột, uống mỗi ngày 3 lần, mỗi lần 5g với nướcấm. Dùng cho bệnh thuộc thể hàn biểu hiện bằng các triệu chứng thông thường có kèmtheo tay chân lạnh, vã mồ hôi lạnh, sợ lạnh, bụng không đau, phân toàn nước màu hơitrắng đục như nước vo gạo, tiểu tiện trong, rêu lưỡi trắng mỏng...Bài 5: Hoạt thạch và cam thảo lượng bằng nhau, tán bột, uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 3-6g. Hoặc búp chè xanh 16g, rau má 16g, lá mơ lông 16g, bông mã đề 16g, nụ sim 18g,sắc uống. Dùng cho bệnh thuộc thể nhiệt.Bài 6: Dùng một trong các bài thuốc độc vị: (1) Biển đậu 1 thăng (còn gọi là thưng, códung tích khoảng 200ml, dùng để đong lương thực) sắc với 1.200ml nước lấy 400mluống. (2) Sinh khương 90g, rửa sạch, giã nát, sắc với rượu 200ml, chia uống nhiều lần.(3) Ngải cứu một nắm sắc với 3 bát nước lấy một bát uống. (4) Riềng 30g giã nát sắc với3 bát nước lấy 2,5 bát rồi bỏ bã đem nấu với gạo thành cháo, chia ăn vài lần. (5) Chi tử14g sao vàng tán bột, uống với rượu ấm. (6) Ngô thù du sao 60g sắc với hai chén rượu tolấy một chén uống ấm.Các bài thuốc nói trên sắc uống ngày 1 thang cho đến khi khỏi.Phương pháp không dùng thuốcBài 1: Dấm gạo để lâu đun nóng, dùng gạc cũ thấm ướt rồi chườm tứ chi nhiều lần. Dùngđể chữa cơn chuột rút (y học cổ truyền gọi là chuyển cân) trong bệnh tả.Bài 2: Cứu huyệt trửu chùy, mỗi huyệt 10 tráng. Vị trí huyệt trửu chùy: ở vùng lưng, nằmsấp xuôi tay, lấy dây đo khoảng cách hai đầu nhọn khớp khuỷu, dây đi ngang qua chỗhõm dưới cột sống lưng là một huyệt, từ huyệt này đo ngang ra hai bên một thốn, mỗibên một huyệt, như vậy là có 3 huyệt. Đây là huyệt vị do Hoa Đà tìm ra, được ghi trongsách Hoa Đà thần y bí truyền.Bài 3: Lấy muối ăn đổ đầy rốn rồi dùng mồi ngải cứu bên trên, dùng để chữa chứngtrướng bụng và hồi sinh trong bệnh tả. Cũng có thể thay muối bằng gừng tươi thái lát(cứu cách gừng).Bài 4: Châm tả huyệt chi câu (từ điểm giữa cổ tay phía mu đo lên trên 3 thốn, ở khe giữaxương quay và xương trụ), dùng để chữa chứng nôn nhiều trong bệnh tả.Bài 5: Dùng một cái bát sứ dấp dầu hạt cải cạo gió vùng cổ vai, cột sống, hai bên sườn,hai mặt trong khớp khuỷu và khớp gối. Cạo từ trên xuống dưới cho đến khi xuất hiệnnhững chấm đỏ tím thì thôi.Bài 6: Lấy tỏi giã nát xát vào hai lòng bàn chân cho đến khi nóng rực thì thôi, dùng đểchữa chứng chuột rút trong bệnh tả.Bài 7: Dùng muối ăn sao nóng chườm vùng ngực, bụng và lưng nhiều lần để cầm nôn vàđi ngoài.Nói chung, những kinh nghiệm nêu trên đều đơn giản, dễ kiếm, dễ làm và rất tiện lợi.Nhưng vì tả là một bệnh nguy hiểm nên người bệnh nhất thiết vẫn phải được khám vàđiều trị theo biện pháp của y học hiện đại. Tuy nhiên, trong một hoàn cảnh cụ thể nào đó,việc chọn lựa và vận dụng những kinh nghiệm dân gian vẫn có giá trị phòng bệnh tíchcực, điều trị hỗ trợ và dự phòng tái phát ở một mức độ nhất định. ...