Danh mục

KINH NGHIỆM ĐIỀU TRỊ “CO CỨNG CƠ CỦA NGƯỜI VIẾT”

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 177.88 KB      Lượt xem: 9      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Phí tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (7 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Chứng co cứng cơ của người viết (Writer’s cramp, crampe de l’ecrivain, CCNV) là loại loạn trương lực cơ khu trú ở tay khi làm động tác mà cơ chế bệnh sinh còn rất phức tạp.Gowers (1888) đã xem CCNV là một dạng bệnh tâm thần và ông đã gọi là “loạn thần kinh khi làm động tác” (occupation neurosis). Từ đó có một trường phái xếp chứng bệnh này vào nhóm bệnh tâm thần kinh như Brain (1923) gọi là suy nhược thần kinh, Walton (1977). ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
KINH NGHIỆM ĐIỀU TRỊ “CO CỨNG CƠ CỦA NGƯỜI VIẾT” KINH NGHIỆM ĐIỀU TRỊ “CO CỨNG CƠ CỦA NGƯỜI VIẾT” ( WRITER’S CRAMP) B ẰNG TOXIN BOTULINUM )I. SINH LÝ BỆNH:Chứng co cứng cơ của người viết (Writer’s cramp, crampe de l’ecrivain, CCNV)là loại loạn trương lực cơ khu trú ở tay khi làm động tác mà cơ chế bệnh sinh cònrất phức tạp.Gowers (1888) đã xem CCNV là một dạng bệnh tâm thần và ông đã gọi là “loạnthần kinh khi làm động tác” (occupation neurosis). Từ đó có một tr ường phái xếpchứng bệnh này vào nhóm bệnh tâm thần kinh như Brain (1923) gọi là suy nhượcthần kinh, Walton (1977). Wilson (1940) cho CCNV là một dạng mệt mỏi mạntính trong khi Pal (1947) xem là một dạng bệnh tâm thần kinh nặng cần phải điềutrị với liệu pháp tâm lý. Crisp và Modofsky (1965) cho ch ứng CCNV là một rốiloạn tâm thần thể tạng của loại hình nhân cách đặc biệt dễ xúc cảm, khép kín. Xuhướng “tâm thần kinh” này tồn tại trong một thời gian khá dài dù các biện pháptâm lý và phản hồi sinh học không tỏ ra có hiệu quả khi được áp dụng .Tuy vậy, ngay từ thế kỷ 19, đã có nhiều nhà y học nghĩ đến căn nguyên thực thểcủa bệnh này dù chưa đủ chứng cứ. Osler và Jellifer cho là có tổn thương vỏ nãovùng điều khiển viết chữ. Babinski (1921) cho đây là một hội chứng thể vân giốngvới loạn trương lực cơ cổ, Barré (1925) đề cập đến rối loạn phả n xạ giao cảm tủysống trong khi Collin và Addi (1922) cho là bệnh lý ở vùng nhân xám trung tâm.Khúc quanh quyết định vào năm 1975-1976 khi Marsden, một giáo sư thần kinhhọc của bệnh viện Queen Square ở London sắp CCNV vào nhóm bệnh loạn trươnglực cơ khu trú. Quan niệm này dần dần được chấp nhận và dựa trên các chứng cứlâm sàng lúc khởi đầu như run một bên, mất sự đong đưa cánh tay khi đi, đôi khicó tăng trương lực nhẹ, có thể diễn biến đến loạn trương lực cơ cổ hay loạn trươnglực cơ lan tỏa và hiếm khi thấy có rối loạn tâm thần kinh.Như vậy CCNV là một rối loạn vận động khi làm động tác và tình trạng loạntrương lực khu trú ở tay này chỉ xảy ra khi sử dụng dụng cụ để viết, khi đánh máychữ (typist’s cramp), khi đánh đàn (musician’s cramp) … tức là khi làm các độngtác có tính chất liên tục, tự ý, lập đi lập lại trong một thời gian dài (còn gọi là hộichứng “sử dụng quá mức”)Về cơ chế bệnh sinh, có 3 giả thuyết :- Hoạt động cơ bị rối loạn mất sự ức chế : Điện cơ ký ghi nhận trong CCNV có sựmất tính chất luân phiên của các hoạt động c ơ đồng vận và đối vận mà lại xuấthiện sự co thắt cùng lúc (Cohen và Hallet 1988). Sự ức chế này bị suy giảm do cótổn thương các neuron trung gian (interneurones) hoặc có lẽ do thiếu sót sự kiểmsoát ly tâm đối với các kích thích con đường ức chế tiền tiếp hợp từ các nhân xámtrung tâm- Rối loạn sự chuẩn bị động tác: các khảo sát điện thế gợi v à điện não đồ cũngnhư SPECT cho thấy có các bất thường ở vùng vỏ não tiền vận động đối bên vàvùng vận động bổ túc (vùng phóng chiếu từ thể vân). Khi viết lập đi lập lại một từ,khác với người bình thường, các bệnh nhân CCNV có sự giảm hoạt động vùng vỏvận động đối bên và đồi thị cùng với sự tăng hoạt vùng tiền vận động cùng bên(Ceballos-Baumann 1997). Điều này gợi ý có sự tăng hoạt khả năng lập kế hoạchở vùng tiền vận động nhận các sợi phóng chiếu thể vân-cầu nhạt-đồi thị.- Vai trò của rối loạn cảm giác trong loạn trương lực cơ khu trú: một số chứng cứđã được ghi nhận như “kiểu động tác đối vận” trong chứng vẹo cổ co thắt, khi tasờ vào một điểm ở cổ hay cằm thì tình trạng run hay loạn trương lực giảm bớt (còngọi là sensory trick). Điều này cũng thấy ở chứng loạn trương lực cơ tay khu trú.Các xung cảm giác hướng tâm bị tổn thương cũng là một bằng chứng gián tiếp :chấn thương, rách, đứt đầu mút ngón tay, các sang chấn ở tay trường diễn như viếtliên tục trong thời gian dài. Murase và cs (2000) ghi nhận các tương quan giữa cácthông tin cảm giác và vận động qua việc nhận thấy có sự giảm điện thế gợi cảmgiác bản thể trước và sau khi làm động tác. Yếu tố N30 thì giảm ở lô chứng trướckhi làm động tác so với lô bệnh. Ngược lại, yếu tố trước trán P 22 thì giảm ở lôbệnh mà không giảm ở lô chứng, điều này phản ánh sự rối loạn chức năng vậnđộng.II. ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG:Có thể phân tích các cơ tham gia vào đ ộng tác viết gồm ba nhóm. Các cơ chủ yếuđể giữ và di chuyển bút viết trên giấy là ba ngón cái, trỏ và ngón thứ ba; các cơgập và duỗi cổ tay là nhóm 2 có tác dụng đồng vận để giúp cho động tác viết đạtđược hiệu quả. Nhóm thứ 3 không tham gia trực tiếp vào động tác viết nhưng cótác dụng điều phối vị trí cánh tay, vai, thân mình và đôi khi cả miệng.Hiện tượng “loạn trương lực cơ khu trú” xuất hiện trước tiên ở nhóm 1, thườngngón cái gập lại ở đốt cuối, ngón trỏ tr ượt lên cán bút và áp lực đè nặng lên tờ giấyviết, đôi khi có hịện tượng run đi kèm. Tất nhiên còn nhiều tình huống lâm sàngkhác mà tình trạng loạn trương lực khu trú xuất hiện ở các cơ duỗi ngón, duỗi cổtay, gập cổ tay rất phức tạp. Khai thác bệnh sử, hỏi các dấu hiệu khởi phát, quansát bệnh nhân vẽ một vòng xoắn hay viết chữ trong vòng 2 phút để thấy rõ các bấtthường xuất hiện, phân biệt được các cơ đồng vận và đối vận, điều này không phảiđơn giản.Bác sĩ có thể bảo bệnh nhân làm nghiệm pháp viết chính tả, viết lại như lúc đầukhởi phát bệnh, viết ở tư thế tự nhiên với ba ngón chủ yếu, vẽ trên bảng với bàntay đưa cao, viết chữ mà không sử dụng ngón loạn trương lực, viết chính tả vớibàn tay không bị bệnh (quan sát hiện tượng “soi gương”).Với các nghiệm pháp này, chúng ta có thể phát hiện được rõ hơn các cơ loạntrương lực ở đây, các cơ đồng vận, đối vận, các cơ đã bị lâu hoặc mới phát hiệntiềm tàng.Có khả năng xảy ra hiệu ứng “bù trư”ø khi bệnh diễn tiến để điều chỉnh lại mộtphần sự trở ngại khi viết của bệnh nhân thí dụ bệnh nhân dùng bàn tay trái để đỡcổ tay phải, dùng ngón trỏ trái để giữ cây bút viết. Điều này cũng giống như “độngtác đối vận”, kiểu bù trừ cảm giác xảy ...

Tài liệu được xem nhiều: