Trong nuôi cá lồng, do chất lượng nước không thể kiểm soát được như trong các thủy vực ao, đầm mà tùy thuộc hoàn toàn vào tự nhiên, vì thế chọn lựa vị trí thích hợp sẽ có ảnh hưởng quyết định đến sự thành công của nghề nuôi. Thông thường, tiêu chuẩn lựa chọn vị trí nuôi được phân thành 3 nhóm yếu tố chính: nhóm các yếu tố liên quan đến sự sống của cá nuôi như nhiệt độ, độ mặn, mức độ nhiễm bẩn, vật chất lơ lửng, nở hoa của tảo, sinh vật gây bệnh...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kinh nghiệm nuôi cá chẽm trong lồng Kỹ thuật nuôi cá chẽm trong lồng Chọn ví trí nuôi lồng Trong nuôi cá lồng, do chất lượng nước không thể kiểm soát đượcnhư trong các thủy vực ao, đầm mà tùy thuộc hoàn toàn vào tự nhiên, vì thếchọn lựa vị trí thích hợp sẽ có ảnh hưởng quyết định đến sự thành công củanghề nuôi. Thông thường, tiêu chuẩn lựa chọn vị trí nuôi được phân thành 3nhóm yếu tố chính: nhóm các yếu tố liên quan đến sự sống của cá nuôi nhưnhiệt độ, độ mặn, mức độ nhiễm bẩn, vật chất lơ lửng, nở hoa của tảo, sinhvật gây bệnh trao đổi nước, dòng chảy, khả năng làm bẩn lồng; nhóm cácyếu tố về độ sâu, chất đáy, giá thể...; và nhóm các yếu tố về điều kiện thànhlập trại nuôi như phương tiện, an ninh, kinh tế - xã hội, luật lệ... Một vị trí tốt cho việc nuôi lồng cá biển là cần thiết có: • Độ sâu phải bảo đảm đáy lồng cách đáy biển ít nhất 2-3m. Ít sóng to,gió lớn (tránh nơi sóng > 2 m) và tốc độ dòng chảy nhỏ (dưới 1 m/giây) nếukhông sẽ làm hư hỏng lồng, trôi thức ăn, làm cho cá hoạt động yếu gây chậmlớn và sinh bệnh. • Tránh nơi nước chảy quá yếu hay nước đứng (tốc độ chảy thích hợptừ 0,2-0,6 m/giây) mà có thể dẫn đến cá chết do thiếu oxy, thức ăn thừa, mùnbã cũng tích lũy ở đáy lồng gây ô nhiễm. • Đảm bảo hàm lượng oxy từ 4-6 mg/lít, nhiệt độ 25- 300C, độ mặn từ27-33%o. Cần tránh xa những nơi gây ô nhiễm dầu, ô nhiễm chất thi côngnghiệp, nước thải sinh hoạt, và tàu bè. Nơi có thể xảy ra hồng triều. Thiết kế và xây dựng lồng Thông thường một dàn lồng có kích cỡ 6 x 6 x 3 m và được thiết kếthành 4 ô để làm thành 4 lồng riêng biệt như vậy mỗi lồng sẽ có kích cỡ 3 x3 x 3 m. Như thế sẽ thuận lợi cho việc thả giống được đồng loạt cho từnglồng, đồng thời với một lồng không nuôi cá sẽ dành để thay lồng khi xử lýbệnh cá hay xử lý rong to bẩn đóng trên lồng. Mặc dầu có thể sử dụng các vật liệu rẻ như tre, gỗ,... để làm lồng nhưnhiều nơi trước đây, song sẽ dễ dàng bị hư hỏng. Vì thế, chỉ nên làm khungtrên lồng bằng gỗ với kích cỡ thông thường loại 8x15 cm. Khung đáy lồngdùng bằng ống nước đường kính 15/21 và được mạ kẽm để tăng tuổi thọ.Lưới lồng tốt nhất nên là PE không gút. Kích thước mắc lưới có thể thay đổitùy vào kích cỡ cá nuôi. Ví dụ cỡ cá 1-2 cm dùng mắc lưới 0,5 cm, cở cá 5-10 cm dùng mắc lưới 1 cm; cở cá 20-30 cm dùng mắc lưới 2 cm và cở cá>25 cm dùng mắc lưới 4 cm. Phao có thể là thùng nhựa (1x 0,6m) hay thùng phuy để nâng khunggổ của lồng. Số lượng phao có thể thay đổi tùy theo lồng có nhà trên đấy haykhông. Lồng đưọc cố định bằng neo ở 4 gốc để tránh bị nước cuốn trôi. Ngoài ra ở các vùng cạn ven bờ có thể phát triển kiểu lồng cố địnhbằng cách dùng lưới và cọc gỗ bao quanh khu nuôi. Kỹ thuật nuôi và quản lý lồng Trước khi thả cá giống vào lồng, cần phải thuần hóa để cá thích nghivới nhiệt độ và nồng độ muối trong lồng. Cá giống nên phân cỡ theo nhómvà nuôi trong những lồng riêng biệt. Thả cá vào lúc sáng sớm (6-8 giờ) hoặcbuổi tối (8-10 giờ) khi nhiệt độ thấp. Mật độ thả cá thường từ 40-50 con/m3. Sau 2-3 tháng nuôi cá đạttrọng lượng 150-200g, lúc này giảm mật độ còn 10-20 con/m3. Nên dànhmột số bè trống, để sử dụng khi cần thiết như chuyển cá giống hay đổi lướicho lồng nuôi khi bị tắc nước do vi sinh vật bám. Thông qua việc chuyển đổilồng giúp phân cỡ và điều chỉnh mật độ nuôi. Thức ăn và cách cho ăn Thức ăn hiện nay là vấn đề lớn mà nghề nuôi cá chẽm đương phảiđương đầu. Hiên tại, cá tạp là nguồn thức ăn được dùng duy nhất cho cáchẽm. Cá tạp được băm nhỏ cho ăn hai lần mỗi ngày vào buổi sáng (8 giờ),buổi chiều (5 giờ) với tỷ lệ 10% trọng lượng cá trong 2 tháng đầu. Sau 2tháng chỉ cho ăn một lần/ngày vào buổi chiều với tỷ lệ 5% trọng lượng cá.Chỉ cho cá ăn khi cá bơi lội gần mặt nước. Do nguồn cá tạp ở một số nước hiếm và đắt, cám gạo và tấm đượcdùng trộn thêm để giảm lượng cá tạp sử dụng. Tuy nhiên gíá thành thức ănvẫn còn cao mặc dù áp dụng phương pháp hạ giá này. Phối hợp nguyên liệulàm thức ăn có thể là cá tạp 70% và cám hoặc tấm 30%. Một bước phát triển mới trong thời gian gần trong việc cải tiến khẩuphần ăn của cá chẽm là sử dụng thức ăn ẩm. Tuy nhiên việc sử dụng loạithức ăn này vẫn còn trong giai đoạn thí nghiệm. Thành phần thức ăn nhưsau: Phân phối và khẩu phần thức ăn ẩm. Thành phần Phần trăm (%) Bột cá 35 Cám 20 Bột đậu nành 15 Bột bắp 10 Bột lá 3 Dầu mực (hoặc dầu cá) 7 Tinh bột khuấy hồ 8 Hỗn hợp Vitamin 2 Quản lý lồng cá ...