Kinh tế Việt Nam tăng trưởng dưới mức tiềm năng
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 280.89 KB
Lượt xem: 11
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Việt Nam là một nền kinh tế chuyển đổi và đang phát triển, thuộc nhóm nước có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới. Vào năm 2000, trong khi đa số các nền kinh tế chuyển đổi ở Đông Âu
vẫn chưa thoát khỏi khủng hoảng và chưa khôi phục được mức GDP trên đầu người so với thời kỳ trước cải cách thì kể từ khi bắt đầu Đổi Mới, Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng trung
bình khoảng 7% một năm - tức là qua mỗi một thập kỷ, quy mô nền kinh tế của chúng ta được nhân lên gấp đôi.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kinh tế Việt Nam tăng trưởng dưới mức tiềm năng CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY KINH TẾ FULBRIGHT KINH TẾ VIỆT NAM TĂNG TRƯỞNG DƯỚI MỨC TIỀM NĂNG1 Vũ Thành Tự Anh 2 Tháng 12 năm 2005 1 Bài viết đã được đăng trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn, ngày 29-12-2005 dưới nhan đề “Tăng trưởng dưới mức tiềm năng.” 2 Tác giả là giảng viên của Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright tại TP. Hồ Chí Minh. Tác giả xin chân thành cảm ơn GS. David Dapice đã cung cấp một số dữ liệu và ý tưởng quan trọng cho bài viết. Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Kinh tế Việt Nam tăng trưởng dưới mức tiềm năng Việt Nam là một nền kinh tế chuyển đổi và đang phát triển, thuộc nhóm nước có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới. Vào năm 2000, trong khi đa số các nền kinh tế chuyển đổi ở Đông Âu vẫn chưa thoát khỏi khủng hoảng và chưa khôi phục được mức GDP trên đầu người so với thời kỳ trước cải cách thì kể từ khi bắt đầu Đổi Mới, Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng trung bình khoảng 7% một năm - tức là qua mỗi một thập kỷ, quy mô nền kinh tế của chúng ta được nhân lên gấp đôi. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam không chỉ được coi là “thần kỳ” trong số những nền kinh tế chuyển đổi, mà nó còn là một trong những “tấm gương” mà Ngân hàng Thế giới hay Quỹ tiền tệ Quốc tế lấy làm điển hình cho các quốc gia đang phát triển khác. Nền kinh tế của Việt Nam tăng trưởng nhanh là một hiện thực, không chỉ dưới con mắt người nước ngoài, cũng không chỉ dưới lăng kính kinh tế vĩ mô, mà sự tăng trưởng này còn có thể được cảm nhận ở đại bộ phận hộ gia đình và các tế bào của nền kinh tế. Thế thì tại sao lại phải lo lắng và hoài nghi về triển vọng tăng trưởng? Vấn đề là ở chỗ, liệu chúng ta đã phát huy hết tiềm năng tăng trưởng của quốc gia hay chưa? Chất lượng, hiệu quả tăng trưởng của chúng ta ra sao? Chúng ta có thể tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong những năm tới hay không? Một cách đánh giá xem liệu nền kinh tế của chúng ta đã sử dụng các nguồn lực một cách hiệu quả để đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất hay chưa là so sánh với các nền kinh tế khác, chứ không phải là tự so sánh với mình như cách chúng ta hay làm xưa nay. Trong bảng dưới đây, để có một cái nhìn đối chiếu, chúng tôi cung cấp số liệu của ba nước Việt Nam, Ấn Độ, và Trung Quốc trong năm 2003 (là năm gần nhất có số liệu đầy đủ của cả ba nước). Trừ những số liệu về tăng trưởng, các số liệu còn lại đều được tính trên đầu người. Bảng 1: Một số chỉ tiêu về nguồn lực và tăng trưởng của Việt Nam, Ấn Độ, Trung Quốc (2003) Nguồn lực (trên đầu người) Việt Nam Ấn Độ Trung Quốc Đầu tư trực tiếp nước ngoài 19$ 4$ 41$ Viện trợ phát triển chính thức 22$ 1$ 1$ 28$ – 50$ 22$ 14$ 1,5 thùng (45$) 0,2 thùng (6$) 1 thùng (30$) 114$ – 136$ 33$ 86$ 483$ 565$ $1.100 0,24 – 0,28 0,05 0,08 7 – 7,5% 7 – 8% 9% Kiều hối Dầu lửa (giá năm 2003 là 30$/thùng) Tổng nguồn lực/đầu người GDP/đầu người Hệ số nguồn lực/GDP đầu người Tăng trưởng GDP Nguồn: World Development Indicators 2005 và Tài liệu tư vấn của IMF. Ghi chú: i) Có hai số liệu về kiều hối của Việt Nam: số liệu chính thức của IMF (28$/đầu người) và số liệu ước tính phi chính thức (50$/đầu người). ii) Số liệu về giá dầu lửa lấy ở mức 30$/thùng của năm 2003. Những số liệu này cho thấy, về mặt tuyệt đối, nguồn lực trên đầu người có được từ nguồn ngoại sinh (bên ngoài nền kinh tế) hay từ nguồn có sẵn của Việt Nam vào khoảng 114-136$, cao gấp 34 lần của Ấn Độ (33$) và gấp rưỡi Trung Quốc (86$). Còn về mặt tương đối hệ số nguồn lực Vũ Thành Tự Anh 2 Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Kinh tế Việt Nam tăng trưởng dưới mức tiềm năng ngoại sinh và sẵn có so với GDP đầu người của ta là 0,24-0,28, gấp khoảng 5 lần so với Ấn Độ (0,05) và bằng 3 đến 3,5 lần của Trung Quốc (0,08). Thuận lợi của nước ta còn lớn hơn trong hơn 1 năm trở lại đây khi giá dầu lửa đã tăng đến mức kỷ lục kể từ lần khủng hoảng dầu lửa trước. Thế nhưng về tốc độ tăng trưởng, chúng ta không hơn Ấn Độ và rõ ràng là thua Trung Quốc khá xa. Hơn nữa, hầu hết các nghiên cứu về kinh tế học tăng trưởng đều chỉ ra rằng, với các điều kiện khác như nhau thì các nước thuộc nhóm có mức thu nhập thấp có thể tăng trưởng với tốc độ cao hơn so với các nước thuộc nhóm thu nhập cao hơn. Một nghiên cứu của GS. David Dapice thuộc Chương trình Việt Nam ở Harvard chỉ ra rằng khi còn ở trình độ phát triển tương tự như Việt Nam, Đài Loan đã duy trì được tốc độ tăng trưởng 11% trong khi tỷ lệ đầu tư/GDP của họ thấp hơn tỉ lệ hiện tại của ta nhiều. Sử dụng nguồn lực một cách có hiệu quả là một trong những nguyên nhân chủ yếu giúp Đài Loan “hóa rồng” trong vòng vài thập kỷ. Tựu trung lại, tất cả những phân tích kinh tế trên đều ngụ ý rằng Việt Nam hoàn toàn có thể tăng trưởng cao hơn mức hiện nay và trở thành nước tăng trưởng cao nhất trong khu vực. Lưu ý rằng trên cả ba phương diện văn hóa, chính trị và xã hội, Việt Nam đều có một số thuận lợi cơ bản so với Ấn Độ. Về mặt văn hóa và xã hội, chế độ đẳng cấp ở Ấn Độ rõ ràng là một cản trở to lớn cho phát triển kinh tế của nước này. Về mặt chính trị, sự bất ổn về chính trị và đi kèm với nó là sự thay đổi về đảng cầm quyền, nội các và chính sách cũng làm môi trường kinh tế chính trị của Ấn Độ trải qua nhiều biến động, có khi đột ngột. Thêm vào đó, tình trạng rối loạn ở Kashmir và Assam, tranh chấp giữa các giáo phái dẫn đến những cuộc đốt phá và giết chóc ở Mumbai - một trung tâm thương mại của Ấn Độ v.v. Tất cả những bất lợi này của Ấn Độ không hề xuất hiện ở Việt Nam trong suốt hơn hai chục năm qua. Qua những phân tích trên, chúng ta có thể nhận định rằng nền kinh tế Việt Nam đang tăng trưởng dưới mức tiềm năng mà lẽ ra nó phải đạt được. Tăng trưởng kinh tế ở đây được đo lường bằng tốc độ thay đổi tổng lượng giá trị gia tăng do nền kinh tế tạo ra trong một năm; và như vậy, chúng ta có nhiều lý do để lo lắng về khả năng tạo ra giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của nền kinh tế của Việt Nam so với các đối thủ cạnh tranh của mình. Có lập luận cho rằng chúng ta phát tri ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kinh tế Việt Nam tăng trưởng dưới mức tiềm năng CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY KINH TẾ FULBRIGHT KINH TẾ VIỆT NAM TĂNG TRƯỞNG DƯỚI MỨC TIỀM NĂNG1 Vũ Thành Tự Anh 2 Tháng 12 năm 2005 1 Bài viết đã được đăng trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn, ngày 29-12-2005 dưới nhan đề “Tăng trưởng dưới mức tiềm năng.” 2 Tác giả là giảng viên của Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright tại TP. Hồ Chí Minh. Tác giả xin chân thành cảm ơn GS. David Dapice đã cung cấp một số dữ liệu và ý tưởng quan trọng cho bài viết. Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Kinh tế Việt Nam tăng trưởng dưới mức tiềm năng Việt Nam là một nền kinh tế chuyển đổi và đang phát triển, thuộc nhóm nước có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới. Vào năm 2000, trong khi đa số các nền kinh tế chuyển đổi ở Đông Âu vẫn chưa thoát khỏi khủng hoảng và chưa khôi phục được mức GDP trên đầu người so với thời kỳ trước cải cách thì kể từ khi bắt đầu Đổi Mới, Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng trung bình khoảng 7% một năm - tức là qua mỗi một thập kỷ, quy mô nền kinh tế của chúng ta được nhân lên gấp đôi. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam không chỉ được coi là “thần kỳ” trong số những nền kinh tế chuyển đổi, mà nó còn là một trong những “tấm gương” mà Ngân hàng Thế giới hay Quỹ tiền tệ Quốc tế lấy làm điển hình cho các quốc gia đang phát triển khác. Nền kinh tế của Việt Nam tăng trưởng nhanh là một hiện thực, không chỉ dưới con mắt người nước ngoài, cũng không chỉ dưới lăng kính kinh tế vĩ mô, mà sự tăng trưởng này còn có thể được cảm nhận ở đại bộ phận hộ gia đình và các tế bào của nền kinh tế. Thế thì tại sao lại phải lo lắng và hoài nghi về triển vọng tăng trưởng? Vấn đề là ở chỗ, liệu chúng ta đã phát huy hết tiềm năng tăng trưởng của quốc gia hay chưa? Chất lượng, hiệu quả tăng trưởng của chúng ta ra sao? Chúng ta có thể tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong những năm tới hay không? Một cách đánh giá xem liệu nền kinh tế của chúng ta đã sử dụng các nguồn lực một cách hiệu quả để đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất hay chưa là so sánh với các nền kinh tế khác, chứ không phải là tự so sánh với mình như cách chúng ta hay làm xưa nay. Trong bảng dưới đây, để có một cái nhìn đối chiếu, chúng tôi cung cấp số liệu của ba nước Việt Nam, Ấn Độ, và Trung Quốc trong năm 2003 (là năm gần nhất có số liệu đầy đủ của cả ba nước). Trừ những số liệu về tăng trưởng, các số liệu còn lại đều được tính trên đầu người. Bảng 1: Một số chỉ tiêu về nguồn lực và tăng trưởng của Việt Nam, Ấn Độ, Trung Quốc (2003) Nguồn lực (trên đầu người) Việt Nam Ấn Độ Trung Quốc Đầu tư trực tiếp nước ngoài 19$ 4$ 41$ Viện trợ phát triển chính thức 22$ 1$ 1$ 28$ – 50$ 22$ 14$ 1,5 thùng (45$) 0,2 thùng (6$) 1 thùng (30$) 114$ – 136$ 33$ 86$ 483$ 565$ $1.100 0,24 – 0,28 0,05 0,08 7 – 7,5% 7 – 8% 9% Kiều hối Dầu lửa (giá năm 2003 là 30$/thùng) Tổng nguồn lực/đầu người GDP/đầu người Hệ số nguồn lực/GDP đầu người Tăng trưởng GDP Nguồn: World Development Indicators 2005 và Tài liệu tư vấn của IMF. Ghi chú: i) Có hai số liệu về kiều hối của Việt Nam: số liệu chính thức của IMF (28$/đầu người) và số liệu ước tính phi chính thức (50$/đầu người). ii) Số liệu về giá dầu lửa lấy ở mức 30$/thùng của năm 2003. Những số liệu này cho thấy, về mặt tuyệt đối, nguồn lực trên đầu người có được từ nguồn ngoại sinh (bên ngoài nền kinh tế) hay từ nguồn có sẵn của Việt Nam vào khoảng 114-136$, cao gấp 34 lần của Ấn Độ (33$) và gấp rưỡi Trung Quốc (86$). Còn về mặt tương đối hệ số nguồn lực Vũ Thành Tự Anh 2 Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Kinh tế Việt Nam tăng trưởng dưới mức tiềm năng ngoại sinh và sẵn có so với GDP đầu người của ta là 0,24-0,28, gấp khoảng 5 lần so với Ấn Độ (0,05) và bằng 3 đến 3,5 lần của Trung Quốc (0,08). Thuận lợi của nước ta còn lớn hơn trong hơn 1 năm trở lại đây khi giá dầu lửa đã tăng đến mức kỷ lục kể từ lần khủng hoảng dầu lửa trước. Thế nhưng về tốc độ tăng trưởng, chúng ta không hơn Ấn Độ và rõ ràng là thua Trung Quốc khá xa. Hơn nữa, hầu hết các nghiên cứu về kinh tế học tăng trưởng đều chỉ ra rằng, với các điều kiện khác như nhau thì các nước thuộc nhóm có mức thu nhập thấp có thể tăng trưởng với tốc độ cao hơn so với các nước thuộc nhóm thu nhập cao hơn. Một nghiên cứu của GS. David Dapice thuộc Chương trình Việt Nam ở Harvard chỉ ra rằng khi còn ở trình độ phát triển tương tự như Việt Nam, Đài Loan đã duy trì được tốc độ tăng trưởng 11% trong khi tỷ lệ đầu tư/GDP của họ thấp hơn tỉ lệ hiện tại của ta nhiều. Sử dụng nguồn lực một cách có hiệu quả là một trong những nguyên nhân chủ yếu giúp Đài Loan “hóa rồng” trong vòng vài thập kỷ. Tựu trung lại, tất cả những phân tích kinh tế trên đều ngụ ý rằng Việt Nam hoàn toàn có thể tăng trưởng cao hơn mức hiện nay và trở thành nước tăng trưởng cao nhất trong khu vực. Lưu ý rằng trên cả ba phương diện văn hóa, chính trị và xã hội, Việt Nam đều có một số thuận lợi cơ bản so với Ấn Độ. Về mặt văn hóa và xã hội, chế độ đẳng cấp ở Ấn Độ rõ ràng là một cản trở to lớn cho phát triển kinh tế của nước này. Về mặt chính trị, sự bất ổn về chính trị và đi kèm với nó là sự thay đổi về đảng cầm quyền, nội các và chính sách cũng làm môi trường kinh tế chính trị của Ấn Độ trải qua nhiều biến động, có khi đột ngột. Thêm vào đó, tình trạng rối loạn ở Kashmir và Assam, tranh chấp giữa các giáo phái dẫn đến những cuộc đốt phá và giết chóc ở Mumbai - một trung tâm thương mại của Ấn Độ v.v. Tất cả những bất lợi này của Ấn Độ không hề xuất hiện ở Việt Nam trong suốt hơn hai chục năm qua. Qua những phân tích trên, chúng ta có thể nhận định rằng nền kinh tế Việt Nam đang tăng trưởng dưới mức tiềm năng mà lẽ ra nó phải đạt được. Tăng trưởng kinh tế ở đây được đo lường bằng tốc độ thay đổi tổng lượng giá trị gia tăng do nền kinh tế tạo ra trong một năm; và như vậy, chúng ta có nhiều lý do để lo lắng về khả năng tạo ra giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của nền kinh tế của Việt Nam so với các đối thủ cạnh tranh của mình. Có lập luận cho rằng chúng ta phát tri ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Kinh tế Việt Nam tăng trưởng Phân phối thu nhập của Việt Nam Nền kinh tế của Việt Nam Tốc độ tăng trưởng kinh tế Đông Nam Á Chỉ tiêu tăng trưởng của Việt NaMGợi ý tài liệu liên quan:
-
Tác động của giá dầu, tỷ giá, tăng trưởng kinh tế đến lạm phát tại Việt Nam
13 trang 22 0 0 -
13 trang 17 0 0
-
Vai trò của đầu tư tư nhân đối với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
13 trang 14 0 0 -
Đề án Tình hình viện trợ ODA của Nhật Bản cho Việt Nam từ năm 1992 đến nay và một số kiến nghị
29 trang 9 0 0 -
78 trang 7 0 0
-
Bài giảng Kinh tế vĩ mô - Lý thuyết và thảo luận chính sách: Bài 1 - Đỗ Thiên Anh Tuấn
19 trang 7 0 0