LÀM KHOA HỌC
Số trang: 3
Loại file: pdf
Dung lượng: 91.36 KB
Lượt xem: 11
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Khi đã có hàng chục tiến sĩ, hàng nghìn phó tiến sĩ[i], hàng chục vạn người có trình độ Đại học, thì đất nước đã có cái lót ở dưới cùng nền văn minh, làm móng vững chắc cho ngôi nhà khoa học được xây dựng trên nền tảng ấy. Chúng ta đã qua thời kỳ đổ móng ồ ạt và bây giờ đã đến lúc xây dựng có lớp lang, nghĩa là phải có cách tổ chức thích hợp. Trong bài này, tôi chỉ bàn tới cách tổ chức thích hợp với những người làm khoa học. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
LÀM KHOA HỌC LÀM KHOA HỌC GS.TSKH. Hồ Ngọc Đại Khi đã có hàng chục tiến sĩ, hàng nghìn phó tiến sĩ[i], hàng chục vạn ngườicó trình độ Đại học, thì đất nước đã có cái lót ở dưới cùng nền văn minh, làmmóng vững chắc cho ngôi nhà khoa học được xây dựng trên nền tảng ấy. Chúng tađã qua thời kỳ đổ móng ồ ạt và bây giờ đã đến lúc xây dựng có lớp lang, nghĩa làphải có cách tổ chức thích hợp. Trong bài này, tôi chỉ bàn tới cách tổ chức thíchhợp với những người làm khoa học. Thuật ngữ làm ở đây tôi hiểu một cách dân dã nhất, như làm ruộng. Nhàkhoa học trước hết phải luôn luôn là người làm, tự làm lấy chứ không phải khuyênngười khác làm, làm một cách thực sự, thực tiễn trong điều kiện kinh tế - xã hộithực tế, có trong tay, chứ không phải trên những điều kiện giá như. Vì vậy, tôicho rằng những người làm khoa học hãy tìm những cách khác nhau trên cùngnhững điều kiện thực tế như nhau. Vấn đề là cách làm. Một cách làm cho một hiệu quả tối ưu theo nguyên lý của nó (nguyên lý sảnxuất nông nghiệp, nguyên lý đại công nghiệp). Người nông dân lão luyện nhất chỉcó thể đạt năng suất cao nhất như làm phần ruộng 5%. Nhưng lịch sử tiến lênkhông phải bằng cách biến mọi cánh đồng thành ruộng 50%, trái lại phải làm cáchkhác. Nhà khoa học làm ruộng khác người nông dân giàu kinh nghiệm làm ruộngchính là ở cách làm, ở nguyên lý làm. Đương nhiên, cách làm mới có cơ sở lịch sửlà cách làm cũ nhưng không phải nống nó lên, hay đôn nó lên cao hơn, mà là xâylên trên nền tảng ấy một nguyên lý mới - mới đến mức hình như trái ngược vớikinh nghiệm cũ. Thí dụ, mấy ngàn năm rồi bà con ta quen mỗi năm gặt hai, ba,bốn lần, nay có thể tin được chăng thứ bảy nào cũng là ngày hội gặt! Một năm 52vụ gặt! Kinh nghiệm của bà con ta ngay từ đầu đã coi cái ý nghĩ về 52 vụ gặt trongmột năm đã là không đứng đắn, thì nói chi đến làm. Vây nên chỉ có một số ít, rất ít,ít lắm những người dám nghĩ đến chuyện ngược đờí ấy. Mỗi cá nhân phải dámnghĩ rồi mới dám làm. Còn như muốn thuyết phục bà con ta (không cứ gì nôngdân đâu!) thì không phải nói lý với họ mà phải thật sự làm ra cho họ đủ 52 vụ gặt,không bỏ sót vụ nào. Nếu nhà khoa học làm được việc đó, thì rõ ràng là cách làmquen thuộc ngàn đời nay dẫu có kiễng lên, nhảy cẫng lên, cũng không tài nào vớitới nổi. Đó là sự khác biệt giữa hai tầm cao lịch sử. Cứ như tên gọi nguyên thuỷ, thuật ngữ người làm khoa học có nghĩa làngười lần đầu tiên mở ra một hướng đi mới cho một cách làm mới. Ở thời đạichúng ta, làm khoa học có nghĩa trực tiếp là làm thật (như làm ra 52 vụ gặt), ítnhất cũng với tư cách làm ra một cái mẫu, một hình mẫu. Sau khi đã có mẫu, tỡclà cách làm đã được xác định, thì mới tính chuyện triển khai nó. Nghĩ như vậy, tôithấy cần chia toàn bộ quá trình làm khoa học nói chung, xét trên phạm vi toàn xãhội (thậm chí trên toàn thế giới), ra ba cấp: Một là: Cấp nghiên cứu (sáng chế, phát minh) Hai là: Cấp phổ biến Ba là: Cấp áp dụng rộng rãi. Ba cấp ấy tương ứng với ba trình độ phát triển của đối tượng khoa học. Trìnhđộ thứ nhất là chân lý khoa học hay hình mẫu mới (chỉ cần có một cái duy nhất).Với cấp phổ biến thì chân lý khoa học đã biến thành tri thức khoa học, thể hiện ởnhiều cái được dập nheo mẫu hoặc được in thành sách. Cuối cùng, khi đã đượcứng dụng rộng rãi trong dân cư thì nó trở thành một vật dụng thường ngày làm nênđời sống hiện thực, hoà vào nền tảng văn minh của xã hội đương thời. Ba trình độấy tương ứng với ba quy mô làm: với chân lý khoa học là làm mẫu, làm hình mẫu.Sản xuất thử ứng với tri thức khoa học, còn vật dụng thường ngày là sản phẩm củaquy mô sản xuất đại trà; cuối cùng, tương ứng với ba trình độ và ba quy mô ấy làcách cư xử của người làm khoa học cũng như với người làm khoa học. Ở cấp nghiên cứu, người làm khoa học chỉ cần trung thành với đối tượngnghiên cứu. Lúc này, nói một cách tuyệt đối, không thể đánh giá một công trìnhnghiên cứu khoa học bằng số phiếu bầu ở bất cứ Hội đồng nào (nếu được thì Ga-li-lê hoặc Anh-xtanh bị thiểu số thảm hại). Nhưng muốn chuyển sang cấp thứ haithì trái lại, nhất thiết phải qua thủ tục bỏ phiếu vì bây giờ việc làm đã mang tínhchất quản lý một cách trực tiếp, vì những lợi ích sống còn của xã hội ngay lúc ấy.Thí dụ, biểu quyết chế tạo bom hạt nhân (chứ không biểu quyết về nguyên lý làmnổ hạt nhân). Còn như đã đến cấp thứ ba, thì việc bỏ phiếu lại trở nên thừa. Tổ chức lại toàn bộ quá trình làm khoa học trong giai đoạn mới, theo tôi là tổchức hệ thống việc làm ở cả ba cấp. Nếu xét theo biên chế thì ta có hình ảnh kiểutổ chức hình chóp, đáy là những người hoạt động tại cấp thứ ba. Số người này vốnđã rất nhỏ so với dân cư, thì những công trình nghiên cứu cấp cao hơn không thểlà việc làm ồ ạt của số đông, mà phải có tổ chức chặt chẽ, giao cho những chuyêngia giỏi nhất đảm nhiệm. Thật ra, đó là cách cư xử tự nhiên và cũng vì vậy mà bao ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
LÀM KHOA HỌC LÀM KHOA HỌC GS.TSKH. Hồ Ngọc Đại Khi đã có hàng chục tiến sĩ, hàng nghìn phó tiến sĩ[i], hàng chục vạn ngườicó trình độ Đại học, thì đất nước đã có cái lót ở dưới cùng nền văn minh, làmmóng vững chắc cho ngôi nhà khoa học được xây dựng trên nền tảng ấy. Chúng tađã qua thời kỳ đổ móng ồ ạt và bây giờ đã đến lúc xây dựng có lớp lang, nghĩa làphải có cách tổ chức thích hợp. Trong bài này, tôi chỉ bàn tới cách tổ chức thíchhợp với những người làm khoa học. Thuật ngữ làm ở đây tôi hiểu một cách dân dã nhất, như làm ruộng. Nhàkhoa học trước hết phải luôn luôn là người làm, tự làm lấy chứ không phải khuyênngười khác làm, làm một cách thực sự, thực tiễn trong điều kiện kinh tế - xã hộithực tế, có trong tay, chứ không phải trên những điều kiện giá như. Vì vậy, tôicho rằng những người làm khoa học hãy tìm những cách khác nhau trên cùngnhững điều kiện thực tế như nhau. Vấn đề là cách làm. Một cách làm cho một hiệu quả tối ưu theo nguyên lý của nó (nguyên lý sảnxuất nông nghiệp, nguyên lý đại công nghiệp). Người nông dân lão luyện nhất chỉcó thể đạt năng suất cao nhất như làm phần ruộng 5%. Nhưng lịch sử tiến lênkhông phải bằng cách biến mọi cánh đồng thành ruộng 50%, trái lại phải làm cáchkhác. Nhà khoa học làm ruộng khác người nông dân giàu kinh nghiệm làm ruộngchính là ở cách làm, ở nguyên lý làm. Đương nhiên, cách làm mới có cơ sở lịch sửlà cách làm cũ nhưng không phải nống nó lên, hay đôn nó lên cao hơn, mà là xâylên trên nền tảng ấy một nguyên lý mới - mới đến mức hình như trái ngược vớikinh nghiệm cũ. Thí dụ, mấy ngàn năm rồi bà con ta quen mỗi năm gặt hai, ba,bốn lần, nay có thể tin được chăng thứ bảy nào cũng là ngày hội gặt! Một năm 52vụ gặt! Kinh nghiệm của bà con ta ngay từ đầu đã coi cái ý nghĩ về 52 vụ gặt trongmột năm đã là không đứng đắn, thì nói chi đến làm. Vây nên chỉ có một số ít, rất ít,ít lắm những người dám nghĩ đến chuyện ngược đờí ấy. Mỗi cá nhân phải dámnghĩ rồi mới dám làm. Còn như muốn thuyết phục bà con ta (không cứ gì nôngdân đâu!) thì không phải nói lý với họ mà phải thật sự làm ra cho họ đủ 52 vụ gặt,không bỏ sót vụ nào. Nếu nhà khoa học làm được việc đó, thì rõ ràng là cách làmquen thuộc ngàn đời nay dẫu có kiễng lên, nhảy cẫng lên, cũng không tài nào vớitới nổi. Đó là sự khác biệt giữa hai tầm cao lịch sử. Cứ như tên gọi nguyên thuỷ, thuật ngữ người làm khoa học có nghĩa làngười lần đầu tiên mở ra một hướng đi mới cho một cách làm mới. Ở thời đạichúng ta, làm khoa học có nghĩa trực tiếp là làm thật (như làm ra 52 vụ gặt), ítnhất cũng với tư cách làm ra một cái mẫu, một hình mẫu. Sau khi đã có mẫu, tỡclà cách làm đã được xác định, thì mới tính chuyện triển khai nó. Nghĩ như vậy, tôithấy cần chia toàn bộ quá trình làm khoa học nói chung, xét trên phạm vi toàn xãhội (thậm chí trên toàn thế giới), ra ba cấp: Một là: Cấp nghiên cứu (sáng chế, phát minh) Hai là: Cấp phổ biến Ba là: Cấp áp dụng rộng rãi. Ba cấp ấy tương ứng với ba trình độ phát triển của đối tượng khoa học. Trìnhđộ thứ nhất là chân lý khoa học hay hình mẫu mới (chỉ cần có một cái duy nhất).Với cấp phổ biến thì chân lý khoa học đã biến thành tri thức khoa học, thể hiện ởnhiều cái được dập nheo mẫu hoặc được in thành sách. Cuối cùng, khi đã đượcứng dụng rộng rãi trong dân cư thì nó trở thành một vật dụng thường ngày làm nênđời sống hiện thực, hoà vào nền tảng văn minh của xã hội đương thời. Ba trình độấy tương ứng với ba quy mô làm: với chân lý khoa học là làm mẫu, làm hình mẫu.Sản xuất thử ứng với tri thức khoa học, còn vật dụng thường ngày là sản phẩm củaquy mô sản xuất đại trà; cuối cùng, tương ứng với ba trình độ và ba quy mô ấy làcách cư xử của người làm khoa học cũng như với người làm khoa học. Ở cấp nghiên cứu, người làm khoa học chỉ cần trung thành với đối tượngnghiên cứu. Lúc này, nói một cách tuyệt đối, không thể đánh giá một công trìnhnghiên cứu khoa học bằng số phiếu bầu ở bất cứ Hội đồng nào (nếu được thì Ga-li-lê hoặc Anh-xtanh bị thiểu số thảm hại). Nhưng muốn chuyển sang cấp thứ haithì trái lại, nhất thiết phải qua thủ tục bỏ phiếu vì bây giờ việc làm đã mang tínhchất quản lý một cách trực tiếp, vì những lợi ích sống còn của xã hội ngay lúc ấy.Thí dụ, biểu quyết chế tạo bom hạt nhân (chứ không biểu quyết về nguyên lý làmnổ hạt nhân). Còn như đã đến cấp thứ ba, thì việc bỏ phiếu lại trở nên thừa. Tổ chức lại toàn bộ quá trình làm khoa học trong giai đoạn mới, theo tôi là tổchức hệ thống việc làm ở cả ba cấp. Nếu xét theo biên chế thì ta có hình ảnh kiểutổ chức hình chóp, đáy là những người hoạt động tại cấp thứ ba. Số người này vốnđã rất nhỏ so với dân cư, thì những công trình nghiên cứu cấp cao hơn không thểlà việc làm ồ ạt của số đông, mà phải có tổ chức chặt chẽ, giao cho những chuyêngia giỏi nhất đảm nhiệm. Thật ra, đó là cách cư xử tự nhiên và cũng vì vậy mà bao ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
văn hóa học triết học khoa học xã hội nhân văn giá trị văn hóa bản sắc văn hóaGợi ý tài liệu liên quan:
-
27 trang 342 2 0
-
Tiểu luận triết học - Ý thức và vai trò của ý thức trong đời sống xã hội
13 trang 280 0 0 -
Tiểu luận: Lý thuyết xã hội học
40 trang 254 0 0 -
Oan và giải oan trong truyện Nghiệp oan của Đào Thị của Nguyễn Dữ
6 trang 250 0 0 -
Tiểu luận triết học - Vận dụng quan điểm cơ sở lý luận về chuyển đổi nền kinh tế thị trường
17 trang 234 0 0 -
9 trang 206 0 0
-
Tiểu luận: Tìm hiểu thực trạng giáo dục Đại Học hiện nay ở nước ta
27 trang 204 0 0 -
Tiểu luận: Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ đến Đông Bắc Á
12 trang 203 0 0 -
12 trang 140 0 0
-
15 trang 136 0 0