Danh mục

LÀM PHIM DÂN TỘC HỌC

Số trang: 24      Loại file: pdf      Dung lượng: 292.96 KB      Lượt xem: 14      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 18,000 VND Tải xuống file đầy đủ (24 trang) 0
Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Để bàn về những bộ phim của mình, tác giả đã nêu lên một vài nét chính về sự phát triển của phim dân tộc học từ sau Chiến tranh Thế giới lần II. Ông chỉ ra rằng những gì trước kia được những người tiên phong xem như một hình thức nghệ thuật giờ đã trở nên chuyên môn hoá, và nói đến vai trò của chính ông trong sự phát triển kỹ thuật của máy quay éclair và máy ghi âm Nagra.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
LÀM PHIM DÂN TỘC HỌC LÀM PHIM DÂN TỘC HỌC Jean Rouch Để bàn về những bộ phim của mình, tác giả đã nêu lên một vài nét chínhvề sự phát triển của phim dân tộc học từ sau Chiến tranh Thế giới lần II.Ông chỉ ra rằng những gì trước kia được những người tiên phong xem nhưmột hình thức nghệ thuật giờ đã trở nên chuyên môn hoá, và nói đến vai tròcủa chính ông trong sự phát triển kỹ thuật của máy quay éclair và máy ghiâm Nagra. Ông sử dụng chính bộ phim của mình Au Pays des Mages Noirs (Xứngười Mages Đen) để cho thấy sự thương mại hoá đã ảnh hưởng tiêu cựcđến chất lượng phim dân tộc học, và cũng thể hiện ý tưởng của ông vềanthropologie partagée, (nhân học chia sẻ) đó là việc chia sẻ những trảinghiệm trong cuộc sống và trong việc làm phim giữa nhà nhân học và nhữngngười cùng làm việc. Rouch đã làm hơn 50 bộ phim về các tín ngưỡng củangười châu Phi, trong đó nổi bật nhất là bộ phim Les Matres Fous (Nhữngngười Matres điên). Trong đó, ông kể lại chuyện, làm thế nào chính quyềnthuộc địa Anh đã cấm bộ phim này và khán giả người Phi lại bị sốc bởi bộphim, nhưng giờ đây bộ phim được nhìn nhận rộng rãi như là một tư liệulịch sử hiếm hoi về ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dân ở TâyPhi. Gần đây hơn, tác giả đã cộng tác với Germaine Dieterlen trong tám bộphim dài tập về Sigui, một nghi lễ về sự tái sinh của thế giới chỉ được tiếnhành bởi người Dogon 60 năm một lần. Rouch hiện đang đào tạo một vàithanh niên để làm phim về Sigui có thể sẽ tiến hành vào năm 2026, và bảnthân người Dogon cũng nghĩ rằng việc ghi lại này là rất quan trọng.Xem phim Những vị chủ điên (Les ma îtres fous) Những bậc tiền bối... [1] Thật không dễ dàng gì khi nói đến yếu tố thời gian trong nhân học hình ảnh.Đầutiên, tôi phải bày tỏ lòng cảm ơn đối với những bậc tiền bối tôtem là GregoryBateson, Magaret Mead, Marcel Griaule, và với những người tiên phong đối vớingành khoa học này, những người không thực sự là những nhà dân tộc học nhưnglại đúng là cha đẻ của phim nhân học, Robert Flaherty và Dziga Vertov. Có điềuluôn luôn khó khăn khi nói về một thời đại khác đã qua từ lâu, nhưng nếu chúng tamuốn chuẩn bị cho một tương lai, chúng ta phải nói về quá khứ. Một trong nhữngbộ phim của tôi, Funérailles à Bongo: le vieil Anai (Lễ tang của cụ già Anai ởBongo), một cụ già nói, không còn nhiều thời gian cho người già, thời gian là chongười trẻ; chẳng có thời gian của người trẻ, thời gian là của người già. ý của ônglà người già cần thiết cho người trẻ; là thế hệ cũng giống như những làn sóng, vàrằng đầu tiên khi làn sóng chưa được hình thành thì nghĩa vụ của người trẻ là lắngnghe những gì người già nói, rồi sau đó lao đi như những con sóng và chết trênnhững bờ cát. Khi chúng ta xem những bộ phim mà Mead và Bateson đã làm, chiếu về mộtcuộc sinh nở (Những ngày đầu tiên trong đời của một đứa trẻ New Guinea = Firstdays in the life of a New Guinea Baby), chúng ta phải cúi đầu kính nể kỹ năng củanhững người làm ra bộ phim ấy vì họ đã sửdụng những máy quay cũ kỹ, cần phảitua băng đi, tua băng lại có lẽ đến 25 giây mỗi lần quay. Tương tự như thế, khiFlaherty quay bộ phim Nanook của phương Bắc (Nanook of the North), ông đãthực hiện tất cả trong phòng thí nghiệm, và sau đó chiếu bộ phim của ông ngàynày qua ngày khác. Tại sao những người tiền bối của chúng ta lại xem những hìnhảnh quan trọng đến như vậy? Cùng giai đoạn này ở châu Âu, những người làm phim tài liệu thường tham giavào trào lưu nghệ thuật hậu chiến. Ví dụ Joris Ivens (cũng là một trong những ôngtổ nghiên cứu tô tem) đã quay phim về những năm 1920 bằng phim 35mm. (Chacủa ông có một cửa hàng máy ảnh rất lớn ở Amsterdam.) Với máy quay phimAgfa, ông quay phim the bridge (chiếc cầu) ở Amsterdam; sau đó cùng với HenryStorck ông quay bộ phim Borinage; sau đó, chiếc máy quay phim được chuyểncho Mannus Franken để ông ta làm những bộ phim đầu tiên của mình ở Indonesia;và sau đó, khi ông đã có đủ tiền để sắm một chiếc máy quay phim tốt hơn, ông đãđem chiếc máy của Ivens cho Boris Kaufman và Jean Vigo, để họ quay các bộphim à Propos de Nice, Zéro de Conduite (ở Nice, Bắt đầu từ số không), vàLAtalante. Đó là câu chuyện về những con người cùng nhau chia sẻ một thínghiệm bởi vì chính bản thân họ không nghĩ mình là những nhà quay phim chuyênnghiệp. Những người như vậy thực sự đã không làm một nghề: họ là những thànhviên của nhóm tiên phong. Và tôi nghĩ, cũng tương tựnhư vậy với trường hợp củaBateson, một người có kiến thức rộng về văn hóa và thực tế là một nhà triết học.Cũng đúng như vậy với Marcel Griaule, người thoạt đầu là một nhà thơ, và sau đóđã tham gia vào chủ nghĩa siêu thực. Những người như vậy làm việc trong mộtmôi trường giống như môi trường Bauhaus[2], và thực sự đa tài. Vì thế, họ xemviệc làm phim giống như một thứ gì đó tựa như vẽ, và được đào tạo để chụp ảnh.(Bản thân tôi cũng được cha tôi đào tạo để vẽ tranh màu nước và trên các chất liệukhác.)Marcel Griaule cũng được đào tạo để trở thành một phi công, và trong suốtcuộc Chiến tranh Thế giới lần II ở châu Phi, ông đã thực hiện việc chụp ảnh từ trênkhông ngay phía trên Dogon trong một chiếc máy bay chiến đấu nhỏ củaPháp.Ông cũng đã thực sự chuẩn bị quay những thước phim từ trên không, nhưngmáy bay đã quá không thăng bằng, nên công việc không thực hiện nổi. Nhữngngười như vậy mong mỏi thực hiện những công việc tiên phong trong khi nhữngbạn trẻ ngày nay không có được lòng đam mê dù chỉ đểnấu một bữa ăntrong khihọ rất sẵn lòng để ăn bữa ăn đó. Để bắt đầu, có lẽ chúng ta phải xác định điều gì có thể tạo ra những thay đổi.Những kinh nghiệm của bản thân tôi có thể rất đáng để tham khảo. Khi tôi đang ởtrường Đại học Xây dựng Cầu đường (école des Ponts et Chaussées de Paris), tôiđã tự học nghệ thuật phim. Tôi tham gia vào Viện Lưu trữ Phim Pháp(Cinémathèque Franacaise) năm 1937, khi nó chỉ mới chỉ được thành lập cách đómột năm bởi Henri Langlois; và ...

Tài liệu được xem nhiều: