Danh mục

LỊCH SỬ CHÂM CỨU HỌC

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 105.88 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
Jamona

Phí tải xuống: 1,000 VND Tải xuống file đầy đủ (7 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Châm Cứu là tên gọi chung 2 phương pháp phòng và trị bệnh cổ truyền. Châm là dùng kim (vật nhọn...) đâm, kích thích vào huyệt. Cứu là dùng hơi nóng tác động lên huyệt. Châm và cứu đều nhằm mục đích: với tác dụng lý học (vật nhọn đâm vào...) hoặc hoá học, kích thích vào các huyệt, tạo nên những phản ứng thích hợp với từng trạng thái bệnh lý, điều hoà và duy trì sự hoạt động bình thường của cơ thể, tiêu trừ các hiện tượng mất thăng bằng (tức là các hiện tượng bệnh...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
LỊCH SỬ CHÂM CỨU HỌC LỊCH SỬ CHÂM CỨU HỌC A. Đại cương Châm Cứu là tên gọi chung 2 phương pháp phòng và trị bệnh cổtruyền. Châm là dùng kim (vật nhọn...) đâm, kích thích vào huyệt. Cứu làdùng hơi nóng tác động lên huyệt. Châm và cứu đều nhằm mục đích: với tác dụng lý học (vật nhọn đâmvào...) hoặc hoá học, kích thích vào các huyệt, tạo nên những phản ứng thíchhợp với từng trạng thái bệnh lý, điều hoà và duy trì sự hoạt động bìnhthường của cơ thể, tiêu trừ các hiện tượng mất thăng bằng (tức là các hiệntượng bệnh lý), giảm đau... I.B- Lịch Sử Châm Cứu Chữ Y theo nguyên ngữ lúc ban đầu là tạo thành bởi 3 phần: 2 phần trên, 1 phần có nghĩa là cung tên, phần thứ 2 tượng trưng bàntay vung lên còn phần dưới tượng trưng cho ông thầy pháp. Trọn nghĩa ban đầu có nghĩa là ông thầy pháp dùng những vũ khímạnh. Dùng tay xử dụng mũi tên (có thể hiểu là để đuổi bệnh tật, cũng cóthể hiểu là để đâm vào huyệt). Như vậy, Châm cứu đã có từ lâu, hầu như gắnliền với việc phát minh ra thuốc. Theo các nhà nghiên cứu: châm cứu bắt nguồn từ thờ i đồ đá (trên4000 năm trước Công nguyên). Theo nguyên từ Acupunture tiếng La Tinhlà Acus (nhọn), Punturus (điểm, dấu chấm), dùng vật nhọn đâm vào huyệt. Người xưa thoạt tiên dùng đá mài nhọn làm kim châm (biêm thạch)hoặc dùng xương để châm (cốt châm), hoặc tre vót nhọn (trúc châm). Khiloài người từ thời đồ đá chuyển sang thời đại đồ đồng thì kim bằng đồng, códiện tích mũi kim nhỏ (vi châm) cũng dần dần thay thế các kim bằng xương,tre, đá thô sơ, để rồi kim bằng vàng, bạc xuất hiện. Hiện nay trên thế giớiđang thông dụng các loại kim làm bằng những hợp chất kim loại không rỉ,có độ bền cao... Thế giới cũng đang nghiên cứu xử dụng châm bằng tiaLaser, bằng âm thanh... không tạo nên cảm giác đau như khi châm kimthông thường nhưng hiệu quả vẫn có thể không kém như châm cứu cổ điển. Quyển sách được coi là xưa nhất về Châm cứu là quyển Nội KinhLinh Khu viết cách đây gần 3000 năm (770-221 trước Công Nguyên).Trong quyển sách Châm cứu xuất bản ở NewYork năm 1973, Felix Manncho biết rằng ở viện bảo tàng LonDon có giữ 1 bản vẽ về các đường kinhcủa con người từ năm 1550 trước Công Nguyên. Thế kỷ thứ 3, đời nhà Tấn, Hoàng-Phủ-Mật (21-282) dựa theo sáchNội Kinh và Minh Đường Khổng Huyệt Châm Cứu Trị Yếu soạn ra quyểnChâm Cứu Giáp Ất Kinh, xác định được 349 huyệt. Đời nhà Đường, thế kỷ thứ 7, đã tổ chức Thái Y Thư để dậy Châmcứu (đây có lẽ là trường dậy đầu tiên về châm cứu), trong đó có 1 thày dậychâm cứu, 1 trợ giáo, 10 thầy thuốc, 20 châm y và 20 châm sinh. Thế kỷ 11, đời nhà Tống, Vương-Duy-Nhất soạn ra Đồng Nhân DuHuyệt Châm Cứu Đồ Kinh, xác định lại tên 364 huyệt, chủ trị và cách châm. Đồng thời ông cho đúc 2 pho tượng đồng cao to bằng người thật, trênđó khắc huyệt và ghi tên huyệt để dậy. Thế kỷ 16, đời nhà Minh, Dương-Kế-Châu soạn quyển Châm CứuĐại Thành, gồm 10 quyển, dựa theo quyển Huyền Cơ Bí Yếu và tổng hợpkinh nghiệm riêng cũng như thu thập hầu hết các tinh hoa của các cuốn sáchtrước đó, vì vậy, quyển Châm Cứu Đại Thành có giá trị rất cao và được coilà nền tảng của châm cứu cổ điển. Sau quyển Châm Cứu Đại Thành, có khá nhiều sách viết về Châm cứunhưng nội dung không có gì mới lạ hơn sách Châm Cứu Đại Thành... Đến năm 1974, quyển sách Châm Cứu Học của Thượng Hải ra đời,giới thiệu châm cứu rõ hơn, nhất là về phương diện giải phẫu, thần kinh,đồng thời sách này cũng giới thiệu hầu như toàn bộ các loại châm mới như:Châm Tê, Diện Châm, Điện Châm, Đầu Châm, Nhĩ Châm, Thủ Châm, TúcChâm, Xích Y Châm... được coi là quyển sách giáo khoa tương đối đầy đủnhất về châm cứu. Tại Việt Nam, châm cứu đã có khá lâu và tương đối có đủ tài liệu biênsoạn. Thời vua Hùng (287-207 trước công nguyên), trong Lĩnh Nam TríchQuái có ghi tên thầy châm cứu giỏi là An-Kỳ-Sinh, người làng Đông Triều,vào thế kỷ thứ 2, đã dùng châm cứu trị cho 1 người tên là Thôi-Văn-Tứ ởCao Lễ, Chí Linh. Đời Thục An Dương Vương(257-207 trước công nguyên), sách sửghi: Thôi-Vĩ, con của Thôi-Lạng được Ma Cô Tiên cho tấm lá ngải, chuyêndùng để trị các bệnh có thịt thừa (nhục anh). Thôi Vĩ đã dùng tấm ngải nàychữa khỏi cho đạo sĩ Ưng-Huyền, Nhâm-Ngao. Vì thế, có lẽ Thôi-Vĩ làngười đầu tiên biết dùng phép cứu để trị bệnh. Đời nhà Trần, dưới triều vua Trần Dụ Tông, Trâu-Canh dùng châmcứu cứu sống thái tử Hạo (con vua Trần Minh Tông) khỏi chết đ uối, sau đó,khi thái tử Hạo lên ngôi (tức vua Trần Dụ Tông) lại cho mời Trâu-Canh làmngự y và chữa cho nhà vua khỏi bệnh liệt dương. Đời nhà Hồ (1401-1407), Nguyễn-Đại-Năng viết quyển Châm CứuTiệp Hiệu Diễn Ca, đây là quyển sách châm cứu đầu tiên biên soạn 1 cáchcông phu, được nhà xuất bản Y Học dịch và in năm 1981. Thế kỷ 15, Nguyễn-Trực trong ...

Tài liệu được xem nhiều: