Danh mục

Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam tập II (1954-1975) - Báo cáo kết quả nghiên cứu, biên soạn công trình nhiệm vụ Trung ương giao: Phần 2

Số trang: 328      Loại file: pdf      Dung lượng: 2.38 MB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
Jamona

Xem trước 10 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Tài liệu Báo cáo kết quả nghiên cứu, biên soạn công trình nhiệm vụ Trung ương giao: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam tập II (1954-1975): Phần 2 gồm nội dung các chương: Chương IV - Đảng lãnh đạo chống chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” và chiến tranh phá hoại lần thứ hai của Mỹ, khôi phục và phát triển kinh tế ở miền Bắc (1969-1/1973); Chương V - cả nước dồn sức giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (1-1973 - 4-1975).
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam tập II (1954-1975) - Báo cáo kết quả nghiên cứu, biên soạn công trình nhiệm vụ Trung ương giao: Phần 2 Chương IV ĐẢNG LÃNH ĐẠO CHỐNG CHIẾN LƯỢC “VIỆT NAM HOÁ CHIẾN TRANH” VÀ CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN THỨ HAI CỦA MỸ, KHÔI PHỤC VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở MIỀN BẮC (1969-1/1973) I. TÌNH HÌNH SAU TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY TẾT MẬU THÂN 1968 VÀ CHỦ TRƯƠNG CHUYỂN HƯỚNG CHIẾN LƯỢC CỦA ĐẢNG 1. Tình hình sau Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 của quân và dân ta ở miền Nam đã gây chấn động chính giới Mỹ, làm bàng hoàng cả nước Mỹ, buộc đế quốc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, ngừng ném bom miền Bắc, cử đại diện đàm phán bốn bên tại Pari (Cộng hoà Pháp). Nhưng Mỹ chưa từ bỏ ý định duy trì chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam. Tập đoàn Níchxơn cho rằng Mỹ chưa dùng hết sức mạnh quân sự của mình trong cuộc chiến tranh Việt Nam, chưa thi thố hết tài năng, mánh khoé chính trị, ngoại giao để phá hậu phương quốc tế của Việt Nam, chưa phá được Lào và Campuchia - đồng minh và hậu phương trực tiếp của Việt Nam. Tập đoàn Níchxơn cũng đã thấy hạn chế của ta trong cuộc tổng tiến công mà họ chưa nhận ra lúc đầu là ta chưa đủ sức giải phóng hoàn toàn miền Nam. Sau vài đợt tiến công, điều bất ngờ đối với họ không còn nữa. Sau năm 1968, nước Mỹ đứng trước cuộc khủng hoảng xã hội gay gắt. Từ khi Mỹ đưa quân vào trực tiếp chiến đấu ở Việt Nam, việc chi tiêu tài chính trong bốn năm (1965-1968) với bình quân mỗi năm là 30 tỷ đô la, chưa kể tốn kém của 11 năm Mỹ thay chân Pháp áp đặt chủ nghĩa thực dân mới xâm lược Việt Nam, đã làm cho nền kinh tế Mỹ khủng hoảng nặng nề nhất kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Lạm phát tăng 6,1% năm 1969. Tỷ trọng ngoại thương giảm từ 48% xuống 10% sau 20 năm (1946-1968). Năng suất lao động xuống thấp so với nhiều nước tư bản phát triển. Đội quân thất nghiệp ngày càng đông thêm. Chính quyền Giônxơn không thể tập trung vào lực 424 lượng “chương trình xã hội vĩ đại”, “chống đói nghèo, ngu dốt, bệnh tật” đã hứa với nhân dân Mỹ. Con số 100.000 binh sĩ bị thương, bị chết và bị mất tích càng làm cho nhiều người Mỹ nhận ra rằng chiến tranh xâm lược Việt Nam là nguồn gốc gây ra tai họa cho cuộc sống của người Mỹ. Tổng thống Giônxơn thừa nhận: “nhân dân Mỹ và một số nhân vật trong chính quyền bắt đầu nghĩ rằng chúng ta (Mỹ) đã thất bại”1. Làn sóng chống chiến tranh Việt Nam rộng lớn chưa từng có của nhân dân Mỹ đã dấy lên: bãi khoá ở các trường học, biểu tình của hàng trăm nghìn, hàng triệu người chống Chính phủ, từ tầng lớp trên đến tầng lớp dưới, từ ngành lập pháp đến ngành hành pháp, đồng loạt đưa ra các yêu sách như: “Khi nào Mỹ rút được quân ra khỏi miền Nam Việt Nam?”, “Phải giảm bớt con số thương vong của Mỹ”, “Phải chấm dứt hoàn toàn việc ném bom miền Bắc Việt Nam”, “Phải giảm bớt mục tiêu của Mỹ ở Việt Nam cho phù hợp với tiềm lực kinh tế và quân sự”. Xu hướng phản đối chiến tranh Việt Nam của Mỹ được khơi dậy và phát triển rộng khắp ngay cả trong các đồng minh của Mỹ. Trước thất bại quân sự trên chiến trường, tình hình kinh tế-xã hội sa sút và sức ép rộng lớn ngay tại nước Mỹ và của thế giới phản đối chiến tranh Việt Nam, Tổng thống Giônxơn buộc phải thực hiện chủ trương “phi Mỹ hoá chiến tranh”, giao trách nhiệm cho quân nguỵ, chấm dứt sự dính líu trên bộ của quân đội Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Thực chất chủ trương “phi Mỹ hoá chiến tranh” là trong tình thế thất bại, khó khăn, Mỹ phải rút quân ra, nhưng vẫn ngoan cố tiếp tục chiến tranh bằng lực lượng quân nguỵ. Thực hiện chủ trương “phi Mỹ hoá chiến tranh”, Giônxơn đã buộc phải chấm dứt không điều kiện cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, chấp nhận đàm phán với Việt Nam dân chủ cộng hoà và Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam-tổ chức đại diện chân chính của miền Nam Việt Nam mà trước nay Mỹ không hề thừa nhận. Chiến lược mới này của Mỹ là một chiến lược hoàn chỉnh về quân sự, chính trị, kinh tế, ngoại giao nhằm tiếp tục thực hiện âm mưu cơ bản của Mỹ 1 . L.Giônxơn: Hồi ký về cuộc đời làm thổng thống, Nxb Buysê Saxten, Pari, 1972, tr. 157. 425 là bám giữ miền Nam Việt Nam, giảm dần vai trò chiến đấu của quân Mỹ nhưng phải giành thế mạnh trên chiến trường để kết thúc chiến tranh theo điều kiện của Mỹ. Về thực chất, đây là chủ trương dùng người Việt Nam đánh người Việt Nam với tiền bạc, vũ khí, trang bị của Mỹ và do Mỹ chỉ huy, như Đại sứ Mỹ Bâncơ từng tuyên bố: “Để thay đổi màu da cho cái xác chết”1, hòng làm dịu sự phản đối của nhân dân Mỹ trước tình hình thương vong của binh lính Mỹ, xoa dịu dư luận chống chiến tranh và đòi rút hết quân Mỹ khỏi miền Nam Việt Nam. Khi tranh cử, R.Níchxơn tuyên bố “tôi có kế hoạch chấm dứt chiến tranh”, khi nhậm chức, Níchxơn tiếp tục tuyên bố, danh dự lớn nhất của nước Mỹ “mà lịch s ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: