Có 4 châu 1 huyện : Huyện Thọ Xuân (a) Châu Khai Na (b) (1) Châu Tàm (c) (2) Châu Lương Chính (d) (3) Châu Sầm (e) (4) Phủ Thanh Đô ở về phía cực tây trấn Thanh Hoa, một huyện bốn châu, phần nhiều theo tục Man, ở liền núi gần sông, tiếp giáp nước Ai Lao, phong tục thì phóng khoáng và ngỗ ngược.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Lịch sử Thanh Hóa - Phủ Thanh Đô Lịch triều hiến chương loại chí QUYỂN II SỰ KHÁC NHAU VỀ PHONG THỔ CÁC ĐẠO Phủ Thanh ĐôCó 4 châu 1 huyện :Huyện Thọ Xuân (a)Châu Khai Na (b) (1)Châu Tàm (c) (2)Châu Lương Chính (d) (3)Châu Sầm (e) (4)Phủ Thanh Đô ở về phía cực tây trấn Thanh Hoa, mộthuyện bốn châu, phần nhiều theo tục Man, ở liền núigần sông, tiếp giáp nước Ai Lao, phong tục thì phóngkhoáng và ngỗ ngược. Các triều tuy có đặt quan đểcai trị nhưng vẫn gọi là miền cơ my và coi là ngườiMan, người Lạo cả.________________(a) 4 động, đường đến kinh đô phải 5 ngày(b) 10 động, đường đến kinh đô phải 6 ngày(c) 10 động(d) 10 động(e) 10 động(1) Khai Na có lẽ là Quan Da, vì chữ quan viết tắt đigần giống với chữ khai ; chữ da giống với chữ na.(2) 2 châu Khai Na và châu Tàm nay là châu QuanHoá(3) Nay là châu Lang Chánh(4) Các bản đều không biên số động, duy có bản A-50 biên là 10 động. Sau này là huyện Sầm Na hay đấtSầm Nưa.__________________ Phủ Trường YênCó 3 huyệnHuyện Gia Viễn (a)Huyện Yên MôHuyện Yên Khang (b) (1)Phủ Trường Yên ở phía bắc trấn Thanh Hoa, tiếpgiáp với trấn Sơn Nam. Huyện Gia Viễn địa giới liềnbến đò sông Thanh Quyết huyện Thanh Liêm , là chỗchia cương giới cho hai trấn. Từ đấy đi đến sôngGián Khẩu, núi sông thoáng rộng, theo đường núi đingược lên về phía tây, thì vào huyện Thiệu Thiên ;theo đường sông đi thẳng xuống về phía đông, thì vàohuyện Yên Khang (c)Huyện Yên Khang, huyệ Yên Mô ở gần biển lớn. ĐờiĐinh, [Tiền] Lê xưa là thành Hoa Lư, đặt kinh đô ởđấy. Thái Tổ nhà Lý dời đô ra Thăng Long, mới đổiHoa Lư làm phủ Trường Yên. Đến thời Mạc, lấy phủTrường Yên, phủ Thiên Quan gọi là Thanh HoaNgoại trấn, lấy núi Tam Điệp làm giới hạn, để chốngcự với nhà Lê [Trung hưng]. Từ phủ Trường Yên trởra phía ngoài gọi là Đông Việt, trở vào phía trong gọilà Tây Việt. Từ trung hưng trở về sau cũng gọi theothế, thành còn có tên gọi là nội trấn và ngoại trấn.Ngoại trấn đóng ở làng Vân Sàng, cảnh trí tốt đẹp(Vân Sàng ở huyện Yên Khang, gần sông là chỗ đôngngười tụ họp : kẻ đi buôn, người đánh cá, phốphường đông đúc, cảnh đẹp, nhân vật nhiều )____________________(a) Đường đi đến kinh đô phải 4 ngày, các huyệnchép sau cũng thế. Trứơc là huyện An Viễn(b) Đời Trần gọi là Yên Ninh, từ Lê trung hưng trởvề sau mới đôỉ ra tên này.(c) Nước sông Gián Khẩu chia làm ba ngả, lúc nướctriều lên, sông rất rộng lớn.Về cổ tích có động Hoa Lư, thành Cổ Lộng( Động Hoa Lư ở trên sông Điềm, thuộc huyện YênKhang, có từng đợt núi cao chót vót, giữa có động đá,cứ theo sông đi qua động ; bên động có một ngọn núi,giống như hình người gọi là núi Trạng Nguyên ; cómột quả núi, đá xếp từng từng, gọi là Hòm Sách.Dưới núi có chân móng kinh thành cũ của triều Đinhtriều Lê. Nay có đền thờ Lê Đại Hành và đền thờĐinh Tiên HoàngTĩnh Vương Trịnh [Sâm] lên chơi có vịnh thơ :Sất luyện oai hồi xuyên thủy độngTrùng tiên ngật nghiệp trĩ sơn quanCương đô dĩ hĩ kinh di hoánThiên phủ y nhiên tự bão hoàn[Dịch]Dòng nước xuyên qua động coi như tấm lụa trắngquanh vòngNúi cao sát từng mây, hình như cái cửa ải bằng đáKhu vực kinh đô cũ [của nhà Đinh nhà Tiên Lê] nayđã thay đổi hết rồiNúi non nơi hiểm yếu này vẫn quanh bọc như cũThành Cổ Lộng ở huyện Gia Viên, tiếp giáp huyệnKim Bảng. Thành này đắp lên từ thời Vĩnh Lạc nhàMinh. Trần Giản Định Đế đánh phá được quân Minhở thành Bô Cô, Mộc Thạnh thua chạy về thành này.Nay chân thành cũ hãy còn. Dân ở làng gần đấy trồngnhiêu dưa đậu. Khi cày đất thường nhặt được gươmcũ.Quế Đường Lê [Quý Đôn] có đề bài thơ :Hoang lũy đồi viên tứ bách thuQua đằng đậu mạn phóng xuân nhuBích ba dĩ tẩy Trần Vương hậnThanh thảo nan già Mộc Thạnh tuHoàng độc vũ dư canh cổ kiếmHàn cầm nguyệt hạ táo tàn lâuPhong cương hà dụng cần khai tịchNghiêu Thuấn đương niên chỉ cửu châu[Dịch]Thành hoang tường đổ đã bốn trăm nămDây dưa dây đỗ gặp xuân nảy mầm non tươi tốtSóng biếc đã rửa sạch hận thù cho vua nhà TrầnCỏ xanh không che nổi mặt xấu hổ của Mộc ThạnhSau khi mưa đem bó ra cây, lại nhặt được gươm đờicổDưới bóng trăng, nhưng con chim gặp lạnh kêu rít rítở chỗ tòa lâu đài đã bị tàn phá[Ngẫm ra] bờ cõi cần gì phải mở rộng mãi[Xem như] đời Nghiêu Thuấn chỉ có chín châu thôi. )__________________ ...