Danh mục

LỢI ÍCH CỦA VIỆC ÐÁNH GIÁ ÐÁP ỨNG SỚM KHI DÙNG PEGYLATED INTERFERON TRONG ÐIỀU TRỊ VIÊM GAN SIÊU VI C MÃN TÍNH

Số trang: 10      Loại file: pdf      Dung lượng: 160.00 KB      Lượt xem: 7      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 5,000 VND Tải xuống file đầy đủ (10 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Các phương thức điều trị có sử dụng interferon đều đạt hiệu quả điều trị cao đối với bệnh nhiễm virus viêm gan C (HCV) mạn tính, phác đồ điều trị chuẩn hiện đang áp dụng gồm pegylated interferon và ribavirin làm sạch được virus trong hơn 50% trường hợp. Tuy nhiên phác đồ này cũng có các trở ngại, đây là một phác đồ điều trị phức tạp, phải sử dụng 2 loại thuốc đưa vào cơ thể bằng 2 đường khác nhau trong khoảng thời gian 6 - 12 tháng, cần giám sát thường xuyên, thường có...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
LỢI ÍCH CỦA VIỆC ÐÁNH GIÁ ÐÁP ỨNG SỚM KHI DÙNG PEGYLATED INTERFERON TRONG ÐIỀU TRỊ VIÊM GAN SIÊU VI C MÃN TÍNH LỢI ÍCH CỦA VIỆC ÐÁNH GIÁ ÐÁP ỨNG SỚM KHI DÙNG PEGYLATED INTERFERON TRONG ÐIỀU TRỊ VIÊM GAN SIÊU VI C MÃN TÍNHCác phương thức điều trị có sử dụng interferon đều đạt hiệu quả điều trị cao đốivới bệnh nhiễm virus viêm gan C (HCV) mạn tính, phác đồ điều trị chuẩn hiệnđang áp dụng gồm pegylated interferon và ribavirin làm sạch được virus trong hơn50% trường hợp. Tuy nhiên phác đồ này cũng có các trở ngại, đây là một phác đồđiều trị phức tạp, phải sử dụng 2 loại thuốc đưa vào cơ thể bằng 2 đường khácnhau trong khoảng thời gian 6 - 12 tháng, cần giám sát thường xuyên, thường cócác tác dụng phụ và đắt tiền. Ngoài ra có đến hơn 40% bệnh nhân được điều trị dùtuân thủ đúng liều điều trị nhưng không sạch virus viêm gan C. Vì vậy việc đánhgiá đáp ứng của virus trong giai đoạn sớm (early virologic respond - EVR) vàdùng đánh giá này để quyết định ngưng hoặc tiếp tục điều trị có thể giúp bệnhnhân tránh những bệnh lý do điều trị cũng nh ư tránh tốn kém không cần thiết chonhững bệnh nhân không có đáp ứng điều trị. Ðồng thời cần phải tiếp tục điều trịcho các bệnh nhân có nhiều cơ hội đạt được đáp ứng virus học duy trì (sustainedvirologic respond - SRV). Hội nghị triển khai sự thống nhất quan niệm của Viện Yhọc quốc gia (tài liệu Quản lý Viêm gan siêu vi C: 2002) khuyến cáo cần phải tiếnhành xét nghiệm định lượng RNA HCV để đánh giá ERV.Cơ sở lý luận cho việc đánh giá ERVLập luận để đánh giá ERV dựa trên động học của virus viêm gan C sau khi tiêminterferon. Tốc độ sao chép của HCV là 1010 - 1012 virus mỗi ngày. Khi bắt đầuđiều trị, thời gian bán hủy trong huyết thanh của các virus này chỉ còn vài giờ.Như vậy hiệu lực kháng virus của pegylated interferon tác dụng nhanh tr ên quátrình sao chép virus làm cho nồng độ HCV RNA bắt đầu tụt xuống rất nhanh trong24 giờ đầu .Mức độ tụt thấp khởi đầu (Phase 1) này tùy thuộc vào liều interferonvà kiểu gene của virus. Tuy nhiên SVR lại không liên quan đến điều này. Tiếptheo phase 1 là giai đoạn thoái triển virus chậm hơn hoặc gọi là phase 2 .Sự tụt dốcnày kéo dài và có thể thay đổi nhiều hơn, giai đoạn thoái triển virus trong phase 2liên quan chặt chẽ với SVR, nhưng lại ít tùy thuộc vào liều interferon và kiểu genecủa virus. 5-8 Mối liên quan chặt chẽ này gợi ý rằng thay đổi nồng độ HCV RNA sovới ban đầu trong những tuần lễ điều trị đầu tiên có thể giúp tiên đoán được khảnăng loại sạch virus HCV, và do đó đánh giá được đáp ứng của điều trị.Xác định EVRÐể giúp ích cho lâm sàng, xác định EVR dựa trên giảm nồng độ HCV RNA đặchiệu ở những thời điểm chuyên biệt trong quá trình điều trị. Xác định được sựgiảm đặc hiệu và thời điểm chuyên biệt nhằm vào 2 mục đích : 1) giảm thiểutrường hợp ngưng điều trị cho những bệnh nhân có khả năng đáp ứng virus có hiệuquả, và 2) tăng tối đa việc ngưng điều trị đối với những n gười không đáp ứng.EVR trong liệu pháp điều trị dựa vào interferonCác nghiên cứu trước đây về đơn trị liệu interferon chuẩn khi thực hiện xétnghiệm định lượng HCV RNA cho thấy không sạch virus HCV ở tuần điều trị thứ12, cả 2 phác đồ 6 và 12 tháng đều bị thất bại điều trị. Ngược lại, tất cả các bệnhnhân sau đó đạt được SVR đều sạch hoàn toàn HCV RNA sau 12 tuần điều trị. Dovậy nếu các bệnh nhân được điều trị bằng đơn trị liệu interferon chuẩn sau 12 tuầnvẫn còn virus trong máu thì nên ngưng điều trị và không hy vọng đạt được SVR.Không hoàn toàn phải chọn thời điểm 12 tuần để đánh giá EVR trong các nghiêncứu kết hợp điều trị interferon/ribavirin. Thay vì 12 tuần thì những bệnh nhân đápứng muộn cần phải chờ đến tuần 24 mới có thể đánh giá được. Tuy nhiên trongmột vài báo cáo nhỏ và ngắn khi mà việc định lượng di truyền chưa được phổ biếnrộng rãi vào thời điểm đó, đã gợi ý rằng người có đáp ứng có thể được tiên đoánsớm hơn trong quá trình điều trị nhờ vào xét nghiệm định lượng di truyền.EVR trong liệu pháp diều trị có pegylated interferonTrong nghiên cứu hồi cứu của David và cộng sự về mối tương quan giữa đáp ứngsớm và thất bại điều trị sử dụng dữ kiện từ 964 bệnh nhân được điều trị bằngpegylated interferon alfa-2b 1.5mg/kg QW và ribavirin 800mg/ngày trong 48 tuần 1trong nghiên cứu lâm sàng phase 3 của Manns và cộng sự (n= 511) hoặcpegylated interferon alfa-2a 180mg QW và ribavirin 1000 - 1200 mg/ngày trong48 tuần trong nghiên cứu lâm sàng phase 3 của Fried và cộng sự (n=453). Cácđịnh lượng HCV RNA đo vào các tuần 4, 12, 24 trong quá trình điều trị được sosánh với giá trị ban đầu. Các thiết bị phân tích HCV RNA được sử dụng là thửnghiệm NGI (nghiên cứu của Manns) hoặc Roche Cobas Amplicor HCV moinitor2.0 (nghiên cứu của Fried) sử dụng các nồng độ pha loãng thích hợp. Các phươngpháp này cho phép một khoảng khảo sát t ...

Tài liệu được xem nhiều: