Lớp San hô
Số trang: 13
Loại file: pdf
Dung lượng: 489.54 KB
Lượt xem: 10
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
San hô là các sinh vật biển thuộc lớp San hô (Anthozoa) tồn tại dưới dạng các thể polip nhỏ giống hải quỳ, thường sống thành các quần thể gồm nhiều cá thể giống hệt nhau. Các cá thể này tiết ra cacbonat canxi để tạo bộ xương cứng, xây nên các rạn san hô tại các vùng biển nhiệt đới. Một "đầu" san hô thực tế được tạo từ hàng ngàn cá thể polip có cấu tạo gen giống hệt nhau, mỗi polip chỉ có dường kính vài milimet. Sau hàng ngàn thế hệ, các polip này để lại...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Lớp San hô San hô San hô Dendrogyra cylindricus Phân loại khoa học Giới (regnum): Animalia Ngành (phylum): Cnidaria Lớp (class): Anthozoa Ehrenberg, 1831San hô là các sinh vật biển thuộc lớp San hô (Anthozoa) tồn tại dưới dạng các thể polipnhỏ giống hải quỳ, thường sống thành các quần thể gồm nhiều cá thể giống hệt nhau. Cáccá thể này tiết ra cacbonat canxi để tạo bộ xương cứng, xây nên các rạn san hô tại cácvùng biển nhiệt đới.Một đầu san hô thực tế được tạo từ hàng ngàn cá thể polip có cấu tạo gen giống hệtnhau, mỗi polip chỉ có dường kính vài milimet. Sau hàng ngàn thế hệ, các polip này để lạimột khung xương là đặc trưng về loài của chúng. Mỗi đầu san hô phát triển nhờ sự sinhsản vô tính của các polip. San hô còn sinh sản hữu tính bằng các giao tử, được giải phóngđồng thời trong một thời kì từ một đến vài đêm liên tiếp trong kì trăng tròn.Tuy san hô có thể dùng các tế bào châm (nematocyst) tiết chất độc tại các xúc tu để bắtphù du, loại động vật này thu nhận phần lớn dưỡng chất từ loại tảo đơn bào cộng sinh cótên tảo vàng đơn bào (zooxanthella). Do đó, hầu hết san hô phụ thuộc vào ánh sáng mặttrời và phát triển ở các vùng nước trong và nông, thường ở độ sâu không tới 60 m (200ft). San hô có thể đóng góp lớn cho cấu trúc vật lý của các rạn san hô phát triển ở nhữngvùng biển nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, chẳng hạn như rạn san hô Great Barrier ở ngoàikhơi bang Queensland, Úc. Các loại san hô khác không cần đến tảo và có thể sống ở vùngnước sâu hơn, chẳng hạn các loài trong chi Lophelia nước-lạnh sống được tới độ sâu3.000 m ở Đại Tây Dương.[3] Một ví dụ khác là Darwin Mounds ở phía tây nam CapeWrath, Scotland. San hô còn được tìm thấy ở ngoài khơi bang Washington và quần đảoAleutian ở Alaska, Mỹ.Phát sinh loàiSan hô nấm ở Papua New GuineaSan hô nằm trong lớp Anthozoa và được chi thành hai phân lớp, tùy theo số xúc tu (tuacảm) hoặc những đường đối xứng, và một loạt các bộ tương ứng với kiểu xương ngoài,loại tế bào châm và phân tích di truyền ti thể[1][2][4]. Phân lớp san hô với 8 xúc tu được gọilà san hô tám ngăn (Octocorallia) hay san hô mềm (Alcyonaria) và bao gồm các bộ sanhô mềm (Alcyonacea), san hô sừng (Gorgonacea) và san hô lông chim (Pennatulacea).Những loài có nhiều số xúc tu lớn hơn 8 và là bội của 6 được gọi là san hô sáu ngăn(Hexacorallia) hay san hô tổ ong (Zoantharia). Nhóm này bao gồm các loài san hô đá(san hô tạo rạn) (Scleractinia), san hô tổ ong (Zoanthidea) và hải quỳ.Cấu tạoCấu tạo của một polip san hôTuy một đầu san hô trông như một cơ thể sống, nhưng nó thực ra là đầu của nhiều cá thểgiống nhau hoàn toàn về di truyền, đó là các polip. Các polip là các sinh vật đa bào vớinguồn thức ăn là nhiều loại sinh vật nhỏ hơn, từ sinh vật phù du tới các loài cá nhỏ.Polip thường có đường kính một vài milimet, cấu tạo bởi một lớp biểu mô bên ngoài vàmột lớp mô bên trong giống như sứa được gọi là ngoại chất. Polip có hình dạng đối xứngtrục với các xúc tu mọc quanh một cái miệng ở giữa - cửa duy nhất tới xoang vị (hay dạdày), cả thức ăn và bã thải đều đi qua cái miệng này.Dạ dài đóng kín tại đáy polip, nơi biểu mô tạo một bộ xương ngoài được gọi là đĩa nền.Bộ xương này được hình thành bởi một vành hình khuyên chứa canxi ngày càng dầythêm (xem ở dưới). Các cấu trúc này phát triển theo chiều thẳng đứng và thành một dạngống từ đáy polip, cho phép nó co vào trong bộ xương ngoài khi cần trú ẩn.Polip mọc bằng cách phát triển khoang hình cốc (calices) theo chiều dọc, đôi khi chiathành vách ngăn để tạo một đĩa nền mới cao hơn. Qua nhiều thế hệ, kiểu phát triển nàytạo nên các cấu trúc san hô lớn chứa canxi, và lâu dài tạo thành các rạn san hô.Sự hình thành bộ xương ngoài chứa canxi là kết quả của việc polip kết lắng aragonitkhoáng từ các ion canxi thu được từ trong nước biển. Tuy khác nhau tùy theo loài và điềukiện môi trường, tốc độ kết lắng có thể đạt mức 10 g/m² polip/ngày (0,3 aoxơ/ yardvuông/day). Điều này phụ thuộc mức độ ánh sáng, sản lượng ban đêm thấp hơn 90% sovới giữa trưa.Nematocyst phóng độc: Một nematocyst phản ứng với một con mồi gần đó đang chạmphải gai châm ngứa, nắp mở, tua châm cắm vào con mồi tiêm chất độc làm tê liệt conmồi, sau đó các xúc tu kéo con mồi vào miệng.Các xúc tu của polip bẫy mồi bằng cách sử dụng các tế bào châm được gọi là nematocyst.Đây là các tế bào chuyên bắt và làm tê liệt các con mồi như sinh vật phù du, khi có tiếpxúc, nó phản ứng rất nhanh bằng cách tiêm chất độc vào con mồi. Các chất độc nàythường yếu, nhưng ở san hô lửa, nó đủ mạnh để gây tổn thương cho con người. Các loàisứa và hải quỳ cũng có nematocyst. Chất đ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Lớp San hô San hô San hô Dendrogyra cylindricus Phân loại khoa học Giới (regnum): Animalia Ngành (phylum): Cnidaria Lớp (class): Anthozoa Ehrenberg, 1831San hô là các sinh vật biển thuộc lớp San hô (Anthozoa) tồn tại dưới dạng các thể polipnhỏ giống hải quỳ, thường sống thành các quần thể gồm nhiều cá thể giống hệt nhau. Cáccá thể này tiết ra cacbonat canxi để tạo bộ xương cứng, xây nên các rạn san hô tại cácvùng biển nhiệt đới.Một đầu san hô thực tế được tạo từ hàng ngàn cá thể polip có cấu tạo gen giống hệtnhau, mỗi polip chỉ có dường kính vài milimet. Sau hàng ngàn thế hệ, các polip này để lạimột khung xương là đặc trưng về loài của chúng. Mỗi đầu san hô phát triển nhờ sự sinhsản vô tính của các polip. San hô còn sinh sản hữu tính bằng các giao tử, được giải phóngđồng thời trong một thời kì từ một đến vài đêm liên tiếp trong kì trăng tròn.Tuy san hô có thể dùng các tế bào châm (nematocyst) tiết chất độc tại các xúc tu để bắtphù du, loại động vật này thu nhận phần lớn dưỡng chất từ loại tảo đơn bào cộng sinh cótên tảo vàng đơn bào (zooxanthella). Do đó, hầu hết san hô phụ thuộc vào ánh sáng mặttrời và phát triển ở các vùng nước trong và nông, thường ở độ sâu không tới 60 m (200ft). San hô có thể đóng góp lớn cho cấu trúc vật lý của các rạn san hô phát triển ở nhữngvùng biển nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, chẳng hạn như rạn san hô Great Barrier ở ngoàikhơi bang Queensland, Úc. Các loại san hô khác không cần đến tảo và có thể sống ở vùngnước sâu hơn, chẳng hạn các loài trong chi Lophelia nước-lạnh sống được tới độ sâu3.000 m ở Đại Tây Dương.[3] Một ví dụ khác là Darwin Mounds ở phía tây nam CapeWrath, Scotland. San hô còn được tìm thấy ở ngoài khơi bang Washington và quần đảoAleutian ở Alaska, Mỹ.Phát sinh loàiSan hô nấm ở Papua New GuineaSan hô nằm trong lớp Anthozoa và được chi thành hai phân lớp, tùy theo số xúc tu (tuacảm) hoặc những đường đối xứng, và một loạt các bộ tương ứng với kiểu xương ngoài,loại tế bào châm và phân tích di truyền ti thể[1][2][4]. Phân lớp san hô với 8 xúc tu được gọilà san hô tám ngăn (Octocorallia) hay san hô mềm (Alcyonaria) và bao gồm các bộ sanhô mềm (Alcyonacea), san hô sừng (Gorgonacea) và san hô lông chim (Pennatulacea).Những loài có nhiều số xúc tu lớn hơn 8 và là bội của 6 được gọi là san hô sáu ngăn(Hexacorallia) hay san hô tổ ong (Zoantharia). Nhóm này bao gồm các loài san hô đá(san hô tạo rạn) (Scleractinia), san hô tổ ong (Zoanthidea) và hải quỳ.Cấu tạoCấu tạo của một polip san hôTuy một đầu san hô trông như một cơ thể sống, nhưng nó thực ra là đầu của nhiều cá thểgiống nhau hoàn toàn về di truyền, đó là các polip. Các polip là các sinh vật đa bào vớinguồn thức ăn là nhiều loại sinh vật nhỏ hơn, từ sinh vật phù du tới các loài cá nhỏ.Polip thường có đường kính một vài milimet, cấu tạo bởi một lớp biểu mô bên ngoài vàmột lớp mô bên trong giống như sứa được gọi là ngoại chất. Polip có hình dạng đối xứngtrục với các xúc tu mọc quanh một cái miệng ở giữa - cửa duy nhất tới xoang vị (hay dạdày), cả thức ăn và bã thải đều đi qua cái miệng này.Dạ dài đóng kín tại đáy polip, nơi biểu mô tạo một bộ xương ngoài được gọi là đĩa nền.Bộ xương này được hình thành bởi một vành hình khuyên chứa canxi ngày càng dầythêm (xem ở dưới). Các cấu trúc này phát triển theo chiều thẳng đứng và thành một dạngống từ đáy polip, cho phép nó co vào trong bộ xương ngoài khi cần trú ẩn.Polip mọc bằng cách phát triển khoang hình cốc (calices) theo chiều dọc, đôi khi chiathành vách ngăn để tạo một đĩa nền mới cao hơn. Qua nhiều thế hệ, kiểu phát triển nàytạo nên các cấu trúc san hô lớn chứa canxi, và lâu dài tạo thành các rạn san hô.Sự hình thành bộ xương ngoài chứa canxi là kết quả của việc polip kết lắng aragonitkhoáng từ các ion canxi thu được từ trong nước biển. Tuy khác nhau tùy theo loài và điềukiện môi trường, tốc độ kết lắng có thể đạt mức 10 g/m² polip/ngày (0,3 aoxơ/ yardvuông/day). Điều này phụ thuộc mức độ ánh sáng, sản lượng ban đêm thấp hơn 90% sovới giữa trưa.Nematocyst phóng độc: Một nematocyst phản ứng với một con mồi gần đó đang chạmphải gai châm ngứa, nắp mở, tua châm cắm vào con mồi tiêm chất độc làm tê liệt conmồi, sau đó các xúc tu kéo con mồi vào miệng.Các xúc tu của polip bẫy mồi bằng cách sử dụng các tế bào châm được gọi là nematocyst.Đây là các tế bào chuyên bắt và làm tê liệt các con mồi như sinh vật phù du, khi có tiếpxúc, nó phản ứng rất nhanh bằng cách tiêm chất độc vào con mồi. Các chất độc nàythường yếu, nhưng ở san hô lửa, nó đủ mạnh để gây tổn thương cho con người. Các loàisứa và hải quỳ cũng có nematocyst. Chất đ ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
khoa học tự nhiên sinh học lớp san hô phân loại san hô các sinh vật biển thuộc lớp San hôGợi ý tài liệu liên quan:
-
176 trang 276 3 0
-
14 trang 97 0 0
-
Đề thi trắc nghiệm côn trùng Đại cuơng
14 trang 46 0 0 -
Tổng hợp nano ZnO sử dụng làm điện cực âm trong nguồn điện bạc - kẽm
5 trang 44 0 0 -
Báo cáo thực tập chuyên đề Vật liệu Ruby Al2O3 : Cr3+ nhâm tạo
25 trang 35 0 0 -
34 trang 35 0 0
-
11 trang 33 0 0
-
Estimation of Sedimentary Basin Depth Using the Hybrid Technique for Gravity Data
5 trang 32 0 0 -
Văn hóa các dân tộc Việt Nam: Thông tin thư mục
144 trang 32 0 0 -
89 trang 28 0 0