Danh mục

Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Chính sách an sinh xã hội với người nông dân sau khi thu hồi đất để phát triển các khu công nghiệp (nghiên cứu tại Bắc Ninh)

Số trang:      Loại file: pdf      Dung lượng: 1.14 MB      Lượt xem: 12      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Chính sách an sinh xã hội với người nông dân sau khi thu hồi đất để phát triển các khu công nghiệp (nghiên cứu tại Bắc Ninh) trình bày lý luận và thực tiễn chính sách an sinh xã hội với người nông dân sau khi thu hồi đất để phát triển các khu công nghiệp, thực trạng, định hướng và giải pháp. Mời các bạn cùng tham khảo tài liệu.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Chính sách an sinh xã hội với người nông dân sau khi thu hồi đất để phát triển các khu công nghiệp (nghiên cứu tại Bắc Ninh) PHẦN MỞ ðẦU 1. Tính cấp thiết của ñề tài Tính ñến tháng 11/2010, cả nước ñã có 250 KCN, khu chế xuất và khu kinh tế ñược thành lập ở 57 tỉnh, thành phố, trong ñó ñã có 170 khu ñi vào hoạt ñộng, các khu này ñã thu hút 8.500 dự án ñầu tư trong và ngoài nước với tổng vốn ñăng ký khoảng 70 tỷ USD, trong ñó vốn ñầu tư trực tiếp của nước ngoài là 52 tỷ USD ñể tạo ra giá trị sản xuất công nghiệp hàng năm là 25 tỷ USD, chiếm trên 30% giá trị công nghiệp của cả nước (Thông tin tổng hợp ngày 2/12/2010 của Ban Tuyên giáo Trung ương). Tuy nhiên, ñể phát triển các khu công nghiệp, theo số liệu thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, bình quân mỗi năm có khoảng 73 ngàn ha ñất nông nghiệp ñược thu hồi. Trong năm năm từ 2000-2005 thu hồi 37.000ha ñất nông nghiệp. Hai vùng kinh tế trọng ñiểm phía Nam và phía Bắc là nơi thu hồi nhiều nhất, trong ñó ñứng ñầu là các ñịa phương Tiền Giang 23.000ha, Bình Dương 16.600ha, ðồng Nai 19.700ha, Hà Nội 7.700ha, Vĩnh Phúc 8.500ha, Bắc Ninh khoảng 5.000ha. ðiều ñó tác ñộng tới ñời sống khoảng 3 triệu người, với gần 700.000 hộ nông dân. Trung bình cứ mỗi ha ñất thu hồi sẽ tạo ra 12 lao ñộng mất việc làm, phải chuyển ñổi nghề mới. Do thiếu trình ñộ sau khi thu hồi ñất, theo thống kê chưa ñầy ñủ chỉ có khoảng gần 80% lao ñộng có việc làm (sản xuất nông nghiệp và chuyển nghề mới) còn lại trên 20% lao ñộng không có việc làm hoặc việc làm bấp bênh không ổn ñịnh, dẫn tới khoảng 50% số hộ nông dân có thu nhập giảm so với trước khi thu hồi ñất, ñời sống gặp nhiều khó khăn. Thực tiễn ở Bắc Ninh cho thấy, từ năm 1997 ñến nay ñã triển khai ñầu tư xây dựng 15 khu công nghiệp tập trung, trên 40 khu công nghiệp vừa và nhỏ, cụm công nghiệp làng nghề với diện tích ñất nông nghiệp phải thu hồi trên 7.000ha. Từ nay ñến năm 2015, Bắc Ninh tiếp tục phát triển các khu công nghiệp, với nhu cầu ñất nông nghiệp phải thu hồi khoảng trên 8.000ha. 2 Riêng hai năm 2008, 2009 ñã thu hồi khoảng trên 1.000ha. Công nghiệp phát triển ñã ñẩy nhanh tốc ñộ tăng trưởng kinh tế với nhịp ñộ cao, song sẽ kéo theo hàng ngàn hộ nông dân không còn ñất canh tác, buộc họ phải chuyển ñổi nghề mới trong khi chưa ñược trang bị kiến thức nghề phù hợp, mặt khác thiếu sự ñịnh hướng của chính quyền ñịa phương. Các hộ nông dân khi nhận tiền ñền bù ñất ñã sử dụng vào nhiều mục ñích khác nhau, trong thời gian ngắn nguồn vốn cạn kiệt trong khi chưa có việc làm ổn ñịnh ñã tạo ra nhiều vấn ñề bức xúc, an ninh nông thôn có nhiều tiềm ẩn mất ổn ñịnh, việc thu hồi ñất của các hộ tiếp sau gặp rất nhiều khó khăn, kéo dài, có trường hợp phải tổ chức cưỡng chế. Qua ñánh giá bước ñầu (của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Bắc Ninh) cho thấy, chỉ khoảng gần 40% hộ nông nghiệp có ñời sống khá hơn, trên 60% số hộ còn lại có ñời sống bằng hoặc kém hơn trước khi thu hồi ñất, trong số này tỷ lệ kém hơn chiếm phần lớn. Như vậy, vấn ñề ñặt ra làm thế nào cùng với việc phát triển các khu công nghiệp cần thiết phải bảo ñảm ñời sống cho người nông dân hậu thu hồi ñất phải bằng hoặc khá hơn trước là vấn ñề mà cấp uỷ, chính quyền băn khoăn, trăn trở. Với những lý do trên, Nghiên cứu sinh quyết ñịnh chọn ñề tài: “Chính sách an sinh xã hội với người nông dân sau khi thu hồi ñất ñể phát triển các khu công nghiệp (nghiên cứu tại Bắc Ninh)” 2. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan Do yêu cầu của CNH trong nền kinh tế thị trường, chính sách ASXH với nông dân nói chung và nông dân diện thu hồi ñất ñể phục vụ quá trình CNH, ñô thị hoá nói riêng ñã ñược khá nhiều nhà kinh tế ở các nước trên thế giới nghiên cứu trong ñó ñáng lưu ý là các nước ở khu vực Châu Á như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Ấn ðộ… Trong các cơ quan nghiên cứu ở các nước như các viện, trường ñại học… ñã xuất bản khá nhiều giáo trình, tài liệu, sách báo, các tạp chí chuyên ngành về vấn ñề ASXH với người nông dân. 3 Ở trong nước những năm thời kỳ ñổi mới nhất là từ những năm 90 của thế kỷ XX trở lại ñây, có một số nhà nghiên cứu ñã có nhiều công trình liên quan ñến vấn ñề ASXH với người nông dân, ñáng chú ý là các nghiên cứu sau ñây: 2.1. Các nghiên cứu thực tiễn có liên quan ñến ñề tài:  Về Cuốn sách “Ảnh hưởng của ñô thị hoá nông thôn ngoại thành Hà Nội (Thực trạng và giải pháp)” do GS.TSKH Lê Du Phong, TS Nguyễn Văn Áng và Hoàng Văn Hoa ñồng chủ biên. (Trường ðại học Kinh tế quốc dân phát hành năm 2002). Ngoài việc hệ thống hoá những vấn ñề lý luận cơ bản, nhóm tác giả bước ñầu xới xáo những tác ñộng tiêu cực của quá trình ñô thị hoá. Trong ñó giành ñáng kể dung lượng ñề cập tình trạng một bộ phận nông dân bị mất ñất sản xuất nông nghiệp, tạm thời họ bị xáo trộn cuộc sống, ñồng thời nêu lên những bức xúc trong quá trình ñền bù khi Nhà nước thu hồi ñất. Nhóm tác giả cũng ñề xuất hai giải pháp tổng quát, ñó là: - Bù ñắp thiệt hại về ñất sao cho người nông dân không cảm thấy thiệt thòi. - Có chính sách hỗ trợ người nông dân trong quá trình chuyển sang các nghề khác (phi nông nghiệp). Từ hai giải pháp ñịnh hướng, tác giả ñã ñề xuất khá thuyết phục về chính sách ñền bù thiệt hại về ñất và căn cứ ñể xác ñịnh mức hỗ trợ chuyển ñổi nghề cho nông dân. Những ñề xuất ñó rất thiết thực, là căn cứ ñể các cơ quan trung ương nghiên cứu khi ban hành chính sách. Tuy nhiên, có thể do khuôn khổ thời gian và phạm vi nghiên cứu, nhóm tác giả mới quan tâm ñến những người lao ñộng nông nghiệp trong ñộ tuổi. Còn lại số người nông dân hết tuổi lao ñộng trong khi trước ñây họ vẫn tham gia sản xuất nông nghiệp ñể tự nuôi sống mình ñến nay họ chưa biết trông cậy vào ñâu thì chưa ñược ñề cập. Họ rất cần sự hỗ trợ từ phía Nhà nước và cộng ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: