LUẬN VĂN: Phép biện chứng về mâu thuẫn và vận dụng phân tích mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay
Số trang: 19
Loại file: pdf
Dung lượng: 656.69 KB
Lượt xem: 8
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Việt Nam trong công cuộc đổi mới đã thực sự đem lại nhiều kết quả to lớn, làm thay đổi bộ mặt đất nước và cuộc sống nhân dân, củng cố vững chắc độc lập dân tộc và chế độ XHCN, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế. Chúng ta có được những thành công rực rỡ ấy là nhờ rất nhiều nguyên nhân chủ quan cũng như khách quan. Song nhân tố quan trọng nhất quyết định sự thành công của sự nghiệp đổi mới đó là chiến lược phát triển...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
LUẬN VĂN: Phép biện chứng về mâu thuẫn và vận dụng phân tích mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay LUẬN VĂN:Phép biện chứng về mâu thuẫn và vậndụng phân tích mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay A- Đặt vấn đề Việt Nam trong công cuộc đổi mới đã thực sự đem lại nhiều kết quả to lớn, làmthay đổi bộ mặt đất nước và cuộc sống nhân dân, củng cố vững chắc độc lập dân tộc vàchế độ XHCN, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế. Chúng ta cóđược những thành công rực rỡ ấy là nhờ rất nhiều nguyên nhân chủ quan cũng nhưkhách quan. Song nhân tố quan trọng nhất quyết định sự thành công của sự nghiệp đổimới đó là chiến lược phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, được khởixướng từ Đại hội Đảng lần thứ VI. Bên cạnh những thành tựu to lớn ấy, chúng ta còn rất nhiều mặt hạn chế do chínhnền kinh tế thị trường (KTTT) đem lại, mặt khác từ một đất nước có nền kinh tế nghèonàn lạc hậu, chúng ta bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa để xây dựng thời kỳ quá độchủ nghĩa, cơ sở hạ tầng còn thiếu thốn, những tàn dư của chế độ tập trung quan liêubao cấp vẫn còn tồn tại khá nhiều. Khi chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lýcủa Nhà nước thì ngoài những khó khăn về kinh tế, còn tồn tại những mâu thuẫn giữacái cũ và cái mới, kìm hãm sự phát triển. Chính vì thế mà việc nghiên cứu tìm rahướng đi đúng đắn cho nền kinh tế phù hợp với điều kiện, hoản cảnh đất nước, phùhợp với khu vực, thế giới và thời đại là hết sức cần thiết. Nghiên cứu đề tài: Phép biện chứng về mâu thuẫn và vận dụng phân tíchmâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước tahiện nay dưới góc độ triết học trong tổng thể các mối quan hệ, biện chứng, sẽ giúpchúng ta hiểu một cách sâu sắc hơn, bản chất hơn những vấn đề xung quanh việc pháttriển kinh tế. B - Nội dungI- Tính tất yếu phải xây dựng nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam. Đại hội Đảng lần thứ VI có ý nghĩa lịch sử, đánh dấu bước chuyển ngoặt đấtnước ta sang thời kỳ mới, thay thế nền kinh tế hiện vật với cơ chế tập trung quan liêubao cấp, sang nền KTTT định hướng XHCN. Trước năm 1986, ở Việt Nam cũng như các nước XHCN khác đã có nhận thứckhông đúng về KTTT và CNXH vì cho rằng chúng đối lập nhau và không thể cùng tồntại, cùng phát triển được. KTTT là sản phẩm của CNTB, vì vậy CNXH không thể xâydựng trên nền tảng của KTTT mà phải xây dựng trên cơ sở của nền kinh tế phi thịtrường. Do những quan niệm trên nên trong một thời kỳ dài, KTTT không thể tồn tạitrong ý thức hệ cũng như trong thực tế ở Việt Nam. Mô hình kinh tế hiện vật chỉ phù hợp trong thời chiến, lúc đó chúng ta cần tậptrung toàn bộ sức người, sức của để phục vụ cho tiền tuyến. Nhưng trong thời bình, môhình đó tỏ ra không phù hợp và thực chất đó là mô hình phi kinh tế. Hơn thế nữa đấtnước ta sau chiến tranh rơi vào tình trạng trầm trọng nhất của khủng hoảng kinh tế - xãhội: sản xuất đình đốn, lạm phát tăng vọt đất nước bị bao vây kinh tế, đời sống nhândân hết sức khó khăn. Trong thời kỳ này mọi hoạt động kinh tế không diễn ra trên thịtrường, quan hệ hàng hoá - tiền tệ bị xem nhẹ, các quy luật của KTTT không đượcnhận thức vận dụng, các đòn bẩy kinh tế như lợi nhuận, tiền lương, giá cả, thuế... bịxem nhẹ, thay vào đó là quan hệ cấp phát hiện vật, sản xuất theo kế hoạch Nhà nước,các chỉ tiêu kinh tế các quyết định kinh tế được soạn thảo từ Nhà nước, làm cho thịtrường bị biến dạng dẫn đến làm triệt tiêu động lực phát triển kinh tế, đã dẫn đếnkhủng hoảng kinh tế. Chính thực tiễn đó buộc Việt Nam phải có nhận thức mới về nền kinh tế XHCN.Đó là nền KTTT theo định hướng XHCN, có sự quản lý của Nhà nước. Như đã biết, vào cuối thời kỳ công xã nguyên thuỷ, đầu thời kỳ xã hội nô lệ loàingười đã có một bước tiến nhảy vọt trong lĩnh vực sản xuất ra của cải vật chất. Trongsản xuất đã bắt đầu có sản phẩm thặng dư, mặc dù lúc đầu sự dư thừa đó chỉ là ngẫunhiên, nhưng cùng với chế độ tư hữu được xác lập, người lao động đã có thể làm chủnhững sản phẩm dư thừa đó, mang trao đổi với nhau để nhận lại những sản phẩm màmình thiếu do kết quả của phân công chuyên môn hoá đưa lại. Thị trường sơ khai xuấthiện từ đó. Tuy nhiên, phải trải qua quá trình phát triển lâu dài, mãi đến giai đoạn cuối xãhội phong kiến đầu xã hội tư bản chủ nghĩa KTTT mới được xác lập hoàn toàn. KTTT trước hết là kinh tế hàng hoá, với đặc trưng phổ biến của nó là người sảnxuất làm ra sản phẩm với mục đích để bán (để trao đổi) chứ không phải để tiêu dùng,hay sản phẩm dư thừa ngẫu nhiên như trước. Ngày nay, khi KTTT hiện đại đã pháttriển một cách phổ biến thì đặc trưng cơ bản đó, không những không mất đi mà cònđược bổ sung, làm phong phú thêm bởi các hình thức và nhân dân của quan hệ trao đổivà vai trò can thiệp của Nhà nước vào quá trình ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
LUẬN VĂN: Phép biện chứng về mâu thuẫn và vận dụng phân tích mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay LUẬN VĂN:Phép biện chứng về mâu thuẫn và vậndụng phân tích mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay A- Đặt vấn đề Việt Nam trong công cuộc đổi mới đã thực sự đem lại nhiều kết quả to lớn, làmthay đổi bộ mặt đất nước và cuộc sống nhân dân, củng cố vững chắc độc lập dân tộc vàchế độ XHCN, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế. Chúng ta cóđược những thành công rực rỡ ấy là nhờ rất nhiều nguyên nhân chủ quan cũng nhưkhách quan. Song nhân tố quan trọng nhất quyết định sự thành công của sự nghiệp đổimới đó là chiến lược phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, được khởixướng từ Đại hội Đảng lần thứ VI. Bên cạnh những thành tựu to lớn ấy, chúng ta còn rất nhiều mặt hạn chế do chínhnền kinh tế thị trường (KTTT) đem lại, mặt khác từ một đất nước có nền kinh tế nghèonàn lạc hậu, chúng ta bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa để xây dựng thời kỳ quá độchủ nghĩa, cơ sở hạ tầng còn thiếu thốn, những tàn dư của chế độ tập trung quan liêubao cấp vẫn còn tồn tại khá nhiều. Khi chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lýcủa Nhà nước thì ngoài những khó khăn về kinh tế, còn tồn tại những mâu thuẫn giữacái cũ và cái mới, kìm hãm sự phát triển. Chính vì thế mà việc nghiên cứu tìm rahướng đi đúng đắn cho nền kinh tế phù hợp với điều kiện, hoản cảnh đất nước, phùhợp với khu vực, thế giới và thời đại là hết sức cần thiết. Nghiên cứu đề tài: Phép biện chứng về mâu thuẫn và vận dụng phân tíchmâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước tahiện nay dưới góc độ triết học trong tổng thể các mối quan hệ, biện chứng, sẽ giúpchúng ta hiểu một cách sâu sắc hơn, bản chất hơn những vấn đề xung quanh việc pháttriển kinh tế. B - Nội dungI- Tính tất yếu phải xây dựng nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam. Đại hội Đảng lần thứ VI có ý nghĩa lịch sử, đánh dấu bước chuyển ngoặt đấtnước ta sang thời kỳ mới, thay thế nền kinh tế hiện vật với cơ chế tập trung quan liêubao cấp, sang nền KTTT định hướng XHCN. Trước năm 1986, ở Việt Nam cũng như các nước XHCN khác đã có nhận thứckhông đúng về KTTT và CNXH vì cho rằng chúng đối lập nhau và không thể cùng tồntại, cùng phát triển được. KTTT là sản phẩm của CNTB, vì vậy CNXH không thể xâydựng trên nền tảng của KTTT mà phải xây dựng trên cơ sở của nền kinh tế phi thịtrường. Do những quan niệm trên nên trong một thời kỳ dài, KTTT không thể tồn tạitrong ý thức hệ cũng như trong thực tế ở Việt Nam. Mô hình kinh tế hiện vật chỉ phù hợp trong thời chiến, lúc đó chúng ta cần tậptrung toàn bộ sức người, sức của để phục vụ cho tiền tuyến. Nhưng trong thời bình, môhình đó tỏ ra không phù hợp và thực chất đó là mô hình phi kinh tế. Hơn thế nữa đấtnước ta sau chiến tranh rơi vào tình trạng trầm trọng nhất của khủng hoảng kinh tế - xãhội: sản xuất đình đốn, lạm phát tăng vọt đất nước bị bao vây kinh tế, đời sống nhândân hết sức khó khăn. Trong thời kỳ này mọi hoạt động kinh tế không diễn ra trên thịtrường, quan hệ hàng hoá - tiền tệ bị xem nhẹ, các quy luật của KTTT không đượcnhận thức vận dụng, các đòn bẩy kinh tế như lợi nhuận, tiền lương, giá cả, thuế... bịxem nhẹ, thay vào đó là quan hệ cấp phát hiện vật, sản xuất theo kế hoạch Nhà nước,các chỉ tiêu kinh tế các quyết định kinh tế được soạn thảo từ Nhà nước, làm cho thịtrường bị biến dạng dẫn đến làm triệt tiêu động lực phát triển kinh tế, đã dẫn đếnkhủng hoảng kinh tế. Chính thực tiễn đó buộc Việt Nam phải có nhận thức mới về nền kinh tế XHCN.Đó là nền KTTT theo định hướng XHCN, có sự quản lý của Nhà nước. Như đã biết, vào cuối thời kỳ công xã nguyên thuỷ, đầu thời kỳ xã hội nô lệ loàingười đã có một bước tiến nhảy vọt trong lĩnh vực sản xuất ra của cải vật chất. Trongsản xuất đã bắt đầu có sản phẩm thặng dư, mặc dù lúc đầu sự dư thừa đó chỉ là ngẫunhiên, nhưng cùng với chế độ tư hữu được xác lập, người lao động đã có thể làm chủnhững sản phẩm dư thừa đó, mang trao đổi với nhau để nhận lại những sản phẩm màmình thiếu do kết quả của phân công chuyên môn hoá đưa lại. Thị trường sơ khai xuấthiện từ đó. Tuy nhiên, phải trải qua quá trình phát triển lâu dài, mãi đến giai đoạn cuối xãhội phong kiến đầu xã hội tư bản chủ nghĩa KTTT mới được xác lập hoàn toàn. KTTT trước hết là kinh tế hàng hoá, với đặc trưng phổ biến của nó là người sảnxuất làm ra sản phẩm với mục đích để bán (để trao đổi) chứ không phải để tiêu dùng,hay sản phẩm dư thừa ngẫu nhiên như trước. Ngày nay, khi KTTT hiện đại đã pháttriển một cách phổ biến thì đặc trưng cơ bản đó, không những không mất đi mà cònđược bổ sung, làm phong phú thêm bởi các hình thức và nhân dân của quan hệ trao đổivà vai trò can thiệp của Nhà nước vào quá trình ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
kinh tế thị trường phân tích mâu thuẫn biện chứng về mâu thuẫn kinh tế kinh tế chính trị luận văn kinh tế luận văn chính trị luận vănGợi ý tài liệu liên quan:
-
Thảo luận đề tài: Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu
98 trang 297 0 0 -
MARKETING VÀ QUÁ TRÌNH KIỂM TRA THỰC HIỆN MARKETING
6 trang 287 0 0 -
Vai trò ứng dụng dịch vụ công của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
4 trang 252 0 0 -
7 trang 238 3 0
-
Tiểu luận triết học - Vận dụng quan điểm cơ sở lý luận về chuyển đổi nền kinh tế thị trường
17 trang 238 0 0 -
Luận văn: Thiết kế xây dựng bộ đếm xung, ứng dụng đo tốc độ động cơ trong hệ thống truyền động điện
63 trang 235 0 0 -
Nghiên cứu lý thuyết kinh tế: Phần 1
81 trang 222 0 0 -
79 trang 220 0 0
-
Đồ án: Kỹ thuật xử lý ảnh sử dụng biến đổi Wavelet
41 trang 217 0 0 -
Tiểu luận: Phân tích chiến lược của Công ty Sữa Vinamilk
25 trang 211 0 0