LUẬN VĂN: Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam
Số trang: 28
Loại file: pdf
Dung lượng: 391.74 KB
Lượt xem: 9
Lượt tải: 0
Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Tham khảo luận văn - đề án luận văn: vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xhcn ở việt nam, luận văn - báo cáo, kinh tế - thương mại phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
LUẬN VĂN: Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam LUẬN VĂN: Vấn đề sở hữu trong nền kinh tếthị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam A. Phần mở đầu Con người - với tư cách là một thực thể xã hội chỉ có thể tồn tại và phát triển khi cónhững cơ sở vật chất nhất định. Ngay từ thời kỳ sơ khai của xã hội loài người, ý thức về xãhội, về cộng đồng người còn hạn chế nhưng người nguyên thuỷ đã biết chiếm giữ hao quảtự nhiên, chim thú săn bắt được, những công cụ lao động giản đơn để phục vụ cho nhu cầucủa mình. Hay nói cách khác, con người sinh ra từ tự nhiên, để tồn tại và phát triển conngười phải dựa vào tự nhiên, chiếm hữu tự nhiên để thoả mãn nhu cầu nhất định. Sở hữuđược hiểu là việc chiếm giữ những sản vật tự nhiên, những thành quả lao động (Ngày naycòn bao gồm cả tư liệu sản xuất) của xã hội loài người. Sở hữu là phạm trù cơ bản, phứctạp và hàm xúc của kinh tế - chính trị học, thường được bàn nhiều và cũng đang tồn tạikhông ít ý kiến khác nhau và đối lập nhau nhưng tựu trung đều dựa trên nguyên tắcphương pháp luận coi sở hữu như quá trình chiếm hữu và nhấn mạnh mặt pháp lý khi giảithích nội dung kinh tế của sở hữu khao học kinh tế tư sản chỉ thấy trong sở hữu các quyềntài sản và sự phân biệt đang tăng lên của các quyền này; còn kinh tế - chính trị học truyềnthống của CNXH coi sở hữu như quan hệ Chủ - khách thể bị chiếm hữu bởi chủ thể hayQuan hệ giữa con người về việc chiếm hữu các yếu tố và kết quả sản xuất do đó thườngcác quan niệm trên quy sở hữu tư bản chủ nghĩa thành sự chiếm hữu tư nhân(chế độ tưhữu) và sở hữu XHCN thành sự chiếm hữu toàn dân về các điều kiện và kết quả sản xuất(chế độ công hữu). Những quan niệm này bộc lộ chỗ yếu là đồng nhất các quan hệ pháp lýcủa kiến trúc thượng tầng với các cơ sở kinh tế của xã hội. Lẫn lộn các hiện tượng kinh tếvới các quan hệ bên trong, ổn định, đang quy định tính chất và xu thế vận động của cáchiện tượng và quá trình này xoá nhoà ranh giới khác nhau giữa các chế độ kinh tế và cáchình thức sở hữu, do đó đã hiển nhiên hạ thấp vai trò lịch sử, đặc biệt của sở hữu trong hệthống sở hữu xã hội. Cách tiếp cận trên về sở hữu đã tỏ ra không để để giải thích sở hữutư sản hiện đại hơn nữa Nó trở thành công cụ biện hộ cho việc Nhà nước hoá toàn bộ nềnkinh tế và nảy sinh hệ thống hành chính chỉ huy của kinh doanh trong CNXH Nhà nước.Do vậy, việc tìm hiểu nội dung kinh tế của sở hữu là cần thiết chẳng những đối với lý luậnkinh tế học nói chung mà còn để có thể đánh giá được các đổi mới và thực chất của sở hữutư sản hiện đại, về thực chất của mô hình XHCN kiểu cũ dựa trên chế độ công hữu thuầnnhất, và về con đường tất yếu chuyển đổi nó sang thị trường. Đương nhiên sở hữu như một phạm trù kinh tế, khác sở hữu như một phạm trù củaluật học và các khoa học xã hội khác, không phải là quan hệ chủ thể - khách thể, tuy rằngquan hệ chủ thể - khách thể Vật liệu xây dựng cho sở hữu kinh tế và là xuất phát điểmcho mọi quá trình kinh tế. Hơn nữa, đã có sự chuyển hoá sở hữu thực tế thành sở hữu kinhtế được gây ra bởi quá trình phản ứng kinh tế - xã hội, trong điều kiện phân công lao độngxã hội và có sự trao đổi sản phẩm lao động (Mà điều kiện trao đổi là: chiếm hữu tư nhânvề các sản phẩm khác nhau và sự trao đổi là tương đương). Vậy các quan hệ kinh tế trong những điều kiện lịch sử nhất định đã bắt buộc sựchiếm hữu riêng rẽ của những người khác nhau về các điều kiện và kết quả sản xuất khácnhau, nói cách khác, bắt buộc xuất hiện hình thái đối kháng của sự thống nhất xã hội, xuấthiện mâu thuẫn kinh tế giữa những đại diện các yếu tố sản xuất tức là các quan hệ sở hữu.Từ đây, có thể rút ra các kết luận chính về vấn đề sở hữu, trước khi chúng ta đi phân tíchcụ thể sự tồn tại, vận hành của nó trong Nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ởViệt Nam: Thứ nhất, Bản chất sở hữu như một phạm trù kinh tế bộc lộ ra ở chỗ nó chứa đựngcác chất lượng xã hội đặc biệt, gây ra bởi sự phân cực kinh tế giữa các vật khác nhau vànhững người khác đại diện cho vật, do đó bắt buộc phải cần đến nhau. Thứ hai, sở hữu luôn giả định (bắt buộc) các cơ sở tư nhân của mình, nó đảm bảo sựquan tâm kinh tế của người sản xuất hàng hoá - động lực thực sự của sản xuất, đảm bảohoạt động bình thường và hiệu quả của phân công lao động xã hội. D. Ricado nói đại ý: Sởhữu tư nhân như là kết quả của phân công lao động xã hội. Thứ ba, nhưng sở hữu tư nhân như là hình thái lịch sử chung, là điều kiện xã hộichung của sản xuất, luôn tồn tại dưới những hình thái cụ thể, đặc thù của sở hữu. Thứ tư, quan hệ sở hữu là quan hệ xã hội trìu tượng, chỉ bộc lộ khi ta phân tích cácchất lượng kinh tế. Thứ năm, bộc lộc các cơ sở chung thống nhất giữa sở hữu và giá trị. Đó là nhờ giá trịphát triển trên cơ sở quan hệ sở hữu; Nói cách khác sở hữu là quan hệ định tính của quanhệ kinh tế, còn giá trị là quan hệ định lượ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
LUẬN VĂN: Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam LUẬN VĂN: Vấn đề sở hữu trong nền kinh tếthị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam A. Phần mở đầu Con người - với tư cách là một thực thể xã hội chỉ có thể tồn tại và phát triển khi cónhững cơ sở vật chất nhất định. Ngay từ thời kỳ sơ khai của xã hội loài người, ý thức về xãhội, về cộng đồng người còn hạn chế nhưng người nguyên thuỷ đã biết chiếm giữ hao quảtự nhiên, chim thú săn bắt được, những công cụ lao động giản đơn để phục vụ cho nhu cầucủa mình. Hay nói cách khác, con người sinh ra từ tự nhiên, để tồn tại và phát triển conngười phải dựa vào tự nhiên, chiếm hữu tự nhiên để thoả mãn nhu cầu nhất định. Sở hữuđược hiểu là việc chiếm giữ những sản vật tự nhiên, những thành quả lao động (Ngày naycòn bao gồm cả tư liệu sản xuất) của xã hội loài người. Sở hữu là phạm trù cơ bản, phứctạp và hàm xúc của kinh tế - chính trị học, thường được bàn nhiều và cũng đang tồn tạikhông ít ý kiến khác nhau và đối lập nhau nhưng tựu trung đều dựa trên nguyên tắcphương pháp luận coi sở hữu như quá trình chiếm hữu và nhấn mạnh mặt pháp lý khi giảithích nội dung kinh tế của sở hữu khao học kinh tế tư sản chỉ thấy trong sở hữu các quyềntài sản và sự phân biệt đang tăng lên của các quyền này; còn kinh tế - chính trị học truyềnthống của CNXH coi sở hữu như quan hệ Chủ - khách thể bị chiếm hữu bởi chủ thể hayQuan hệ giữa con người về việc chiếm hữu các yếu tố và kết quả sản xuất do đó thườngcác quan niệm trên quy sở hữu tư bản chủ nghĩa thành sự chiếm hữu tư nhân(chế độ tưhữu) và sở hữu XHCN thành sự chiếm hữu toàn dân về các điều kiện và kết quả sản xuất(chế độ công hữu). Những quan niệm này bộc lộ chỗ yếu là đồng nhất các quan hệ pháp lýcủa kiến trúc thượng tầng với các cơ sở kinh tế của xã hội. Lẫn lộn các hiện tượng kinh tếvới các quan hệ bên trong, ổn định, đang quy định tính chất và xu thế vận động của cáchiện tượng và quá trình này xoá nhoà ranh giới khác nhau giữa các chế độ kinh tế và cáchình thức sở hữu, do đó đã hiển nhiên hạ thấp vai trò lịch sử, đặc biệt của sở hữu trong hệthống sở hữu xã hội. Cách tiếp cận trên về sở hữu đã tỏ ra không để để giải thích sở hữutư sản hiện đại hơn nữa Nó trở thành công cụ biện hộ cho việc Nhà nước hoá toàn bộ nềnkinh tế và nảy sinh hệ thống hành chính chỉ huy của kinh doanh trong CNXH Nhà nước.Do vậy, việc tìm hiểu nội dung kinh tế của sở hữu là cần thiết chẳng những đối với lý luậnkinh tế học nói chung mà còn để có thể đánh giá được các đổi mới và thực chất của sở hữutư sản hiện đại, về thực chất của mô hình XHCN kiểu cũ dựa trên chế độ công hữu thuầnnhất, và về con đường tất yếu chuyển đổi nó sang thị trường. Đương nhiên sở hữu như một phạm trù kinh tế, khác sở hữu như một phạm trù củaluật học và các khoa học xã hội khác, không phải là quan hệ chủ thể - khách thể, tuy rằngquan hệ chủ thể - khách thể Vật liệu xây dựng cho sở hữu kinh tế và là xuất phát điểmcho mọi quá trình kinh tế. Hơn nữa, đã có sự chuyển hoá sở hữu thực tế thành sở hữu kinhtế được gây ra bởi quá trình phản ứng kinh tế - xã hội, trong điều kiện phân công lao độngxã hội và có sự trao đổi sản phẩm lao động (Mà điều kiện trao đổi là: chiếm hữu tư nhânvề các sản phẩm khác nhau và sự trao đổi là tương đương). Vậy các quan hệ kinh tế trong những điều kiện lịch sử nhất định đã bắt buộc sựchiếm hữu riêng rẽ của những người khác nhau về các điều kiện và kết quả sản xuất khácnhau, nói cách khác, bắt buộc xuất hiện hình thái đối kháng của sự thống nhất xã hội, xuấthiện mâu thuẫn kinh tế giữa những đại diện các yếu tố sản xuất tức là các quan hệ sở hữu.Từ đây, có thể rút ra các kết luận chính về vấn đề sở hữu, trước khi chúng ta đi phân tíchcụ thể sự tồn tại, vận hành của nó trong Nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ởViệt Nam: Thứ nhất, Bản chất sở hữu như một phạm trù kinh tế bộc lộ ra ở chỗ nó chứa đựngcác chất lượng xã hội đặc biệt, gây ra bởi sự phân cực kinh tế giữa các vật khác nhau vànhững người khác đại diện cho vật, do đó bắt buộc phải cần đến nhau. Thứ hai, sở hữu luôn giả định (bắt buộc) các cơ sở tư nhân của mình, nó đảm bảo sựquan tâm kinh tế của người sản xuất hàng hoá - động lực thực sự của sản xuất, đảm bảohoạt động bình thường và hiệu quả của phân công lao động xã hội. D. Ricado nói đại ý: Sởhữu tư nhân như là kết quả của phân công lao động xã hội. Thứ ba, nhưng sở hữu tư nhân như là hình thái lịch sử chung, là điều kiện xã hộichung của sản xuất, luôn tồn tại dưới những hình thái cụ thể, đặc thù của sở hữu. Thứ tư, quan hệ sở hữu là quan hệ xã hội trìu tượng, chỉ bộc lộ khi ta phân tích cácchất lượng kinh tế. Thứ năm, bộc lộc các cơ sở chung thống nhất giữa sở hữu và giá trị. Đó là nhờ giá trịphát triển trên cơ sở quan hệ sở hữu; Nói cách khác sở hữu là quan hệ định tính của quanhệ kinh tế, còn giá trị là quan hệ định lượ ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
kinh tế thị trường kinh tế kinh tế chính trị luận văn kinh tế luận văn chính trị luận vănGợi ý tài liệu liên quan:
-
Thảo luận đề tài: Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu
98 trang 308 0 0 -
MARKETING VÀ QUÁ TRÌNH KIỂM TRA THỰC HIỆN MARKETING
6 trang 297 0 0 -
Vai trò ứng dụng dịch vụ công của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
4 trang 267 0 0 -
Tiểu luận triết học - Vận dụng quan điểm cơ sở lý luận về chuyển đổi nền kinh tế thị trường
17 trang 250 0 0 -
7 trang 241 3 0
-
Luận văn: Thiết kế xây dựng bộ đếm xung, ứng dụng đo tốc độ động cơ trong hệ thống truyền động điện
63 trang 237 0 0 -
79 trang 229 0 0
-
Nghiên cứu lý thuyết kinh tế: Phần 1
81 trang 225 0 0 -
Tiểu luận ' Dịch vụ Logistics '
18 trang 220 0 0 -
Đồ án: Kỹ thuật xử lý ảnh sử dụng biến đổi Wavelet
41 trang 219 0 0