LUẬN VĂN: Xuất khẩu lao động của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc á - thực trạng và giải pháp
Số trang: 113
Loại file: pdf
Dung lượng: 36.89 MB
Lượt xem: 11
Lượt tải: 0
Xem trước 10 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Đẩy mạnh xuất khẩu lao động (XKLĐ) là một chủ trương của Đảng và Nhà nước, được coi là một chiến lược quan trọng, lâu dài, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho một bộ phận lao động, tạo nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. XKLĐ còn là biện pháp để tiếp thu, chuyển giao công nghệ tiên tiến từ nước ngoài, giúp đào tạo đội ngũ lao động có chất lượng và tăng cường các quan hệ hợp tác quốc tế của Việt Nam, tạo điều kiện cho Việt...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
LUẬN VĂN: Xuất khẩu lao động của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc á - thực trạng và giải pháp LUẬN VĂN:Xuất khẩu lao động của Việt Nam sangthị trường khu vực Đông Bắc á - thực trạng và giải pháp Mở Đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Đẩy mạnh xuất khẩu lao động (XKLĐ) là một chủ trương của Đảng và Nhà nước,được coi là một chiến lược quan trọng, lâu dài, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhậpvà cải thiện đời sống cho một bộ phận lao động, tạo nguồn thu ngoại tệ cho đất nước.XKLĐ còn là biện pháp để tiếp thu, chuyển giao công nghệ tiên tiến từ n ước ngoài, giúpđào tạo đội ngũ lao động có chất lượng và tăng cường các quan hệ hợp tác quốc tế của ViệtNam, tạo điều kiện cho Việt Nam hội nhập sâu hơn vào khu vực và quốc tế. Khu vực Đông Bắc á có các nước có trình độ cao về phát triển kinh tế, khoa học,kỹ thuật và công nghệ, trong đó Nhật Bản còn là nước công nghệ nguồn, là khu vực có nhucầu nhập khẩu nhiều loại lao động. Vì vậy, XKLĐ sang khu vực này còn có mục đích tiếpthu các kiến thức khoa học công nghệ (KHCN), kỹ thuật sản xuất tiên tiến, kinh nghiệmquản lý, kinh doanh hiện đại từ các nước trong khu vực này, nâng cao tay nghề và rènluyện tác phong công nghiệp cho người lao động. Thực tế, khu vực Đông Bắc á là một thịtrường XKLĐ khu vực quan trọng đối với Việt Nam, trong đó các nước nhập khẩu laođộng (NKLĐ) chính là Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Từ đầu những năm 1990 đếnnay, hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang khu vực này chiếm tỷ trọng lớn và có tác độngtích cực đối với người lao động cũng như đối với sự phát triển chung của các ngành, địaphương của Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả khả quan, hoạt động XKLĐ củaViệt Nam sang khu vực Đông Bắc á thời gian qua đã bộc lộ những hạn chế, khó khăn, cónhững diễn biến phức tạp và phát sinh các tiêu cực, rủi ro. Xảy ra hiện tượng lao động ViệtNam bị phân biệt đối xử về tiền công, về điều kiện làm việc và sinh hoạt, bị lạm dụng, laođộng tự ý phá hợp đồng, bỏ trốn ra ngoài làm việc và cư trú bất hợp pháp, v.v... Đặc biệt,số lượng lao động Việt Nam tự ý phá hợp đồng, bỏ trốn ngày càng lớn, đến mức các nướcnày đã nhiều lần lên tiếng sẽ đóng cửa thị trường nếu Việt Nam không tìm cách ngăn chặnvà giải quyết dứt điểm, thậm chí Đài Loan đã tạm thời ngừng tiếp nhận lao động Việt Namở một số lĩnh vực. Những vấn đề đó đã tác động tiêu cực tới quan hệ hợp tác lao động củaViệt Nam với các nước trong khu vực, là nguyên nhân gây ra nguy cơ bị đóng băng hoặcmất thị trường XKLĐ vào tay các nước XKLĐ khác, làm phức tạp thêm tình hình, gây khókhăn cho công tác quản lý lao động Việt Nam ở các nước này. Hơn nữa, xét về tầm chiếnlược, những vấn đề đó nếu không được giải quyết triệt để sẽ làm mất uy tín của người laođộng cũng như các doanh nghiệp XKLĐ của Việt Nam trên thị trường lao động quốc tế,tạo dư luận và tâm lý không tốt trong xã hội đối với hoạt động XKLĐ, ảnh hưởng xấu tớimục tiêu và hiệu quả của hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang khu vực này trong thời giantới. Từ tình hình thực tế nêu trên, việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá hoạt độngXKLĐ của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc á để tìm ra những nguyên nhâncủa thành công và hạn chế, rút ra các bài học kinh nghiệm, đưa ra các giải pháp nhằm hạnchế những phát sinh tiêu cực, thúc đẩy hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang thị trườngkhu vực này phát triển là rất có ý nghĩa và cần thiết trong bối cảnh hiện nay. Vì vậy, vấnđề Xuất khẩu lao động của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc á - thực trạngvà giải pháp được chọn làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài ở nước ta trong những năm qua đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đềXKLĐ, như: Nguyễn Lương Trào (1993): Mở rộng và nâng cao hiệu quả việc đưa laođộng đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài - Luận án tiến sĩ kinh tế; Cao Văn Sâm (1994):Hoàn thiện hệ thống tổ chức và cơ chế xuất khẩu lao động - Luận án tiến sĩ kinh tế; TrầnVăn Hằng (1995): Các giải pháp nhằm đổi mới quản lý nhà nước về xuất khẩu lao độngtrong giai đoạn 1995-2010 - Luận án tiến sĩ kinh tế; Nguyễn Đình Thiện (2000): Một sốvấn đề về xuất khẩu lao động của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay - Luận văn thạc sĩkinh tế chính trị; Nguyễn Văn Tiến (2002): Đổi mới cơ chế quản lý nhà nước về xuất khẩulao động - thực trạng và giải pháp - Luận văn thạc sĩ quản lý kinh tế; Nguyễn Phúc Khanh(2004): Xuất khẩu lao động với chương trình quốc gia về việc làm - Thực trạng và giảipháp - Đề tài khoa học cấp Bộ. Ngoài ra còn có một số đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơsở, các bài nghiên cứu đăng trên nhiều tạp chí viết về vấn đề này. Các công trình nghiên cứu này nhìn chung đã tiếp cận vấn đề XKLĐ của ViệtNam ở nhiều góc độ khác nhau, tập trung nhiều vào việc phân tích đánh giá hoạt độngXKLĐ của Việt Nam nói chung, hoặc về các khía cạnh chính sách, cơ chế quản lý hoạt ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
LUẬN VĂN: Xuất khẩu lao động của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc á - thực trạng và giải pháp LUẬN VĂN:Xuất khẩu lao động của Việt Nam sangthị trường khu vực Đông Bắc á - thực trạng và giải pháp Mở Đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Đẩy mạnh xuất khẩu lao động (XKLĐ) là một chủ trương của Đảng và Nhà nước,được coi là một chiến lược quan trọng, lâu dài, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhậpvà cải thiện đời sống cho một bộ phận lao động, tạo nguồn thu ngoại tệ cho đất nước.XKLĐ còn là biện pháp để tiếp thu, chuyển giao công nghệ tiên tiến từ n ước ngoài, giúpđào tạo đội ngũ lao động có chất lượng và tăng cường các quan hệ hợp tác quốc tế của ViệtNam, tạo điều kiện cho Việt Nam hội nhập sâu hơn vào khu vực và quốc tế. Khu vực Đông Bắc á có các nước có trình độ cao về phát triển kinh tế, khoa học,kỹ thuật và công nghệ, trong đó Nhật Bản còn là nước công nghệ nguồn, là khu vực có nhucầu nhập khẩu nhiều loại lao động. Vì vậy, XKLĐ sang khu vực này còn có mục đích tiếpthu các kiến thức khoa học công nghệ (KHCN), kỹ thuật sản xuất tiên tiến, kinh nghiệmquản lý, kinh doanh hiện đại từ các nước trong khu vực này, nâng cao tay nghề và rènluyện tác phong công nghiệp cho người lao động. Thực tế, khu vực Đông Bắc á là một thịtrường XKLĐ khu vực quan trọng đối với Việt Nam, trong đó các nước nhập khẩu laođộng (NKLĐ) chính là Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Từ đầu những năm 1990 đếnnay, hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang khu vực này chiếm tỷ trọng lớn và có tác độngtích cực đối với người lao động cũng như đối với sự phát triển chung của các ngành, địaphương của Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả khả quan, hoạt động XKLĐ củaViệt Nam sang khu vực Đông Bắc á thời gian qua đã bộc lộ những hạn chế, khó khăn, cónhững diễn biến phức tạp và phát sinh các tiêu cực, rủi ro. Xảy ra hiện tượng lao động ViệtNam bị phân biệt đối xử về tiền công, về điều kiện làm việc và sinh hoạt, bị lạm dụng, laođộng tự ý phá hợp đồng, bỏ trốn ra ngoài làm việc và cư trú bất hợp pháp, v.v... Đặc biệt,số lượng lao động Việt Nam tự ý phá hợp đồng, bỏ trốn ngày càng lớn, đến mức các nướcnày đã nhiều lần lên tiếng sẽ đóng cửa thị trường nếu Việt Nam không tìm cách ngăn chặnvà giải quyết dứt điểm, thậm chí Đài Loan đã tạm thời ngừng tiếp nhận lao động Việt Namở một số lĩnh vực. Những vấn đề đó đã tác động tiêu cực tới quan hệ hợp tác lao động củaViệt Nam với các nước trong khu vực, là nguyên nhân gây ra nguy cơ bị đóng băng hoặcmất thị trường XKLĐ vào tay các nước XKLĐ khác, làm phức tạp thêm tình hình, gây khókhăn cho công tác quản lý lao động Việt Nam ở các nước này. Hơn nữa, xét về tầm chiếnlược, những vấn đề đó nếu không được giải quyết triệt để sẽ làm mất uy tín của người laođộng cũng như các doanh nghiệp XKLĐ của Việt Nam trên thị trường lao động quốc tế,tạo dư luận và tâm lý không tốt trong xã hội đối với hoạt động XKLĐ, ảnh hưởng xấu tớimục tiêu và hiệu quả của hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang khu vực này trong thời giantới. Từ tình hình thực tế nêu trên, việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá hoạt độngXKLĐ của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc á để tìm ra những nguyên nhâncủa thành công và hạn chế, rút ra các bài học kinh nghiệm, đưa ra các giải pháp nhằm hạnchế những phát sinh tiêu cực, thúc đẩy hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang thị trườngkhu vực này phát triển là rất có ý nghĩa và cần thiết trong bối cảnh hiện nay. Vì vậy, vấnđề Xuất khẩu lao động của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc á - thực trạngvà giải pháp được chọn làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài ở nước ta trong những năm qua đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đềXKLĐ, như: Nguyễn Lương Trào (1993): Mở rộng và nâng cao hiệu quả việc đưa laođộng đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài - Luận án tiến sĩ kinh tế; Cao Văn Sâm (1994):Hoàn thiện hệ thống tổ chức và cơ chế xuất khẩu lao động - Luận án tiến sĩ kinh tế; TrầnVăn Hằng (1995): Các giải pháp nhằm đổi mới quản lý nhà nước về xuất khẩu lao độngtrong giai đoạn 1995-2010 - Luận án tiến sĩ kinh tế; Nguyễn Đình Thiện (2000): Một sốvấn đề về xuất khẩu lao động của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay - Luận văn thạc sĩkinh tế chính trị; Nguyễn Văn Tiến (2002): Đổi mới cơ chế quản lý nhà nước về xuất khẩulao động - thực trạng và giải pháp - Luận văn thạc sĩ quản lý kinh tế; Nguyễn Phúc Khanh(2004): Xuất khẩu lao động với chương trình quốc gia về việc làm - Thực trạng và giảipháp - Đề tài khoa học cấp Bộ. Ngoài ra còn có một số đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơsở, các bài nghiên cứu đăng trên nhiều tạp chí viết về vấn đề này. Các công trình nghiên cứu này nhìn chung đã tiếp cận vấn đề XKLĐ của ViệtNam ở nhiều góc độ khác nhau, tập trung nhiều vào việc phân tích đánh giá hoạt độngXKLĐ của Việt Nam nói chung, hoặc về các khía cạnh chính sách, cơ chế quản lý hoạt ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
thị trường đông bắc á xuất khẩu lao động kinh tế vĩ mô cao học kinh tế luận văn vĩ mô cao học vĩ mô luận vănGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo trình Kinh tế vi mô - TS. Lê Bảo Lâm
144 trang 737 21 0 -
Giáo trình Kinh tế vi mô - PGS.TS Lê Thế Giới (chủ biên)
238 trang 583 0 0 -
Phương pháp nghiên cứu nguyên lý kinh tế vi mô (Principles of Microeconomics): Phần 2
292 trang 555 0 0 -
Xuất khẩu lao động ở Nghệ An và những vấn đề đặt ra
4 trang 534 0 0 -
Đề cương môn Kinh tế học đại cương - Trường ĐH Mở TP. Hồ Chí Minh
6 trang 332 0 0 -
Thảo luận đề tài: Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu
98 trang 308 0 0 -
38 trang 252 0 0
-
Giáo trình Kinh tế học vĩ mô - PGS.TS. Nguyễn Văn Dần (chủ biên) (HV Tài chính)
488 trang 247 1 0 -
Bài giảng Kinh tế vi mô - Trường CĐ Cộng đồng Lào Cai
92 trang 240 0 0 -
Luận văn: Thiết kế xây dựng bộ đếm xung, ứng dụng đo tốc độ động cơ trong hệ thống truyền động điện
63 trang 237 0 0