Thông tin tài liệu:
Bệnh nhân mắc các bệnh máu ác tính thường có giảm số lượng bạch cầu trung tính trong máu, nhất là ở những người được điều trị hoá chất chống ung thư hoặc sau ghép tuỷ xương.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Lưu ý khi sử dụng thuốc chống nấm Lưu ý khi sử dụng thuốcchống nấmBệnh nhân mắc các bệnh máu ác tính thường có giảm số lượng bạch cầutrung tính trong máu, nhất là ở những người được điều trị hoá chất chốngung thư hoặc sau ghép tuỷ xương.Điều này làm cho người bệnh luôn có nguy cơ cao bị mắc các bệnh nhiễmtrùng, trong đó nhiễm nấm là một trong những nguyên nhân quan trọng làmnặng bệnh và gây tử vong. Trong vài thập kỷ gần đây, tỷ lệ nhiễm nấm toànthể đã được ghi nhận ngày càng tăng ở những bệnh nhân này với hầu hết cácchủng nấm đã được phân lập, nhưng gặp nhiều nhất là aspergillus vàcandida.Khoảng 10-30% bệnh nhân bị bệnh bạch cầu cấp có nhiễm nấm candida và10-15% bệnh nhân bị bệnh máu ác tính sau ghép tuỷ xương có nhiễmaspergillus. Các biểu hiện thường gặp của nhiễm candida toàn thể là sốt, nổiban sẩn ngoài da, xuất hiện các đám mờ ở gan thận trên phim chụp cắt lớphoặc viêm nội nhãn. Trong khi đó, các trường hợp nhiễm nấm aspergillusthường biểu hiện sớm với các triệu chứng của viêm phổi (như ho, khó thở,đau ngực, khạc đờm) hoặc viêm mũi xoang (sổ mũi, chảy máu mũi, đaunhức vùng xoang mặt…). Nói chung, trong các trường hợp nhiễm nấm, điềutrị càng sớm thì hiệu quả đạt được càng cao.Do đó, thuốc chống nấm nên được dùng sớm ngay khi có các triệu chứngnghi ngờ, không nên chờ đến khi có đầy đủ xét nghiệm chẩn đoán. Gần đây,thuốc chống nấm cũng được khuyên dùng bao vây trong các trường hợp cógiảm bạch cầu mức độ nặng và sốt kéo dài không đáp ứng với kháng sinh.Trước đây, thuốc được sử dụng phổ biến nhất trong điều trị các trường hợpnhiễm nấm toàn thể là amphotericin B deoxycholate và dạng lipid của thuốcnày. Mặc dù có phổ tác dụng khá rộng nhưng thuốc này cũng có khá nhiềutác dụng phụ như gây nhiễm độc thận, viêm tắc tĩnh mạch, thiếu máu, sốt,run, buồn nôn, nôn và có tương tác với nhiều loại thuốc nên gần đây đã đượcthay thế bằng nhiều thuốc chống nấm mới có tác dụng tốt hơn và ít độc tínhhơn. Bệnh nấm da.Hiện nay, các dẫn xuất của nhóm triazol như itraconazol, fluconazol vàvoriconazol là những thuốc chống nấm được sử dụng rộng rãi nhất trongđiều trị các trường hợp nhiễm nấm toàn thể. Fluconazol có khả năng tantrong nước nên hấp thu tốt qua đường uống, ít gây tương tác thuốc và có tácdụng rất tốt với các loại nấm men như candida. Itraconazol có phổ tác dụngtương đối rộng nhưng hay gây tương tác thuốc và hấp thu không ổn định quađường uống.Voriconazol là một dẫn xuất mới của nhóm azol với tác dụng tốt trên cả nấmmốc và nấm men, thuốc cũng có khả năng hấp thu tốt qua đường uống. Mộtsố nghiên cứu gần đây cho thấy, trong các trường hợp nhiễm nấm aspergillustoàn thể hoặc dùng bao vây ở những bệnh nhân giảm bạch cầu trung tính cósốt kéo dài, voriconazol có tác dụng tốt hơn rõ rệt so với amphotericin B.Độc tính thường gặp của các dẫn xuất nhóm azol là gây nhiễm độc gan, nổiban đỏ, hoa mắt chóng mặt, rối loạn tiêu hoá… Riêng voriconazol có thể gâyrối loạn thị giác ở 30% số người sử dụng.Caspofungin - một dẫn xuất của nhóm echinocandin cũng rất có tác dụng tốtđối với cả nấm candida và aspergillus. Các nghiên cứu cho thấy, thuốc nàycó tác dụng tương đương với amphotericin B trong các trường hợp nhiễmcandida và aspergillus toàn thể nhưng ít tác dụng phụ hơn. Độc tính thườnggặp nhất của thuốc là sốt, nổi ban đỏ, đau đầu và viêm tắc tĩnh mạch. Một sốnghiên cứu gần đây cho thấy, phối hợp giữa caspofungin với một dẫn xuấtcủa nhóm azol giúp tăng cường hiệu quả chống nấm nhưng cũng làm tăngđộc tính và giá thành điều trị.