Danh mục

Lý luận chung về nhà nước - Lê Thị Bích Ngọc

Số trang: 24      Loại file: pdf      Dung lượng: 224.21 KB      Lượt xem: 20      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Phí tải xuống: 2,000 VND Tải xuống file đầy đủ (24 trang) 0
Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Tài liệu "Lý luận chung về nhà nước" biên soạn bởi Lê Thị Bích Ngọc, trình bày những vấn đề lý luận hết sức cơ bản về Nhà nước với ý nghĩa là một hiện tượng lịch sử xã hội phức tạp. Đứng từ góc độ nghiên cứu theo phương pháp duy vật biện chứng khách quan, khoa học cho học viên thấy được sự phát triển của lịch sử xã hội loài người được tiếp cận từ phương diện nhà nước.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Lý luận chung về nhà nước - Lê Thị Bích Ngọc Lý luận chung về nhà nước Lý luận chung về nhà nước Bởi: Lê Thị Bích Ngọc Nội dung của chương 1 trình bày những vấn đề lý luận hết sức cơ bản về Nhà nước với ý nghĩa là một hiện tượng lịch sử xã hội phức tạp. Đứng từ góc độ nghiên cứu theo phương pháp duy vật biện chứng khách quan, khoa học cho học viên thấy được sự phát triển của lịch sử xã hội loài người được tiếp cận từ phương diện nhà nước. Qua những vấn đề chung nhất về lý luận và thực tiễn cho thấy nhà nước có quá trình phát sinh, phát triển và tồn tại trên những cơ sở kinh tế và xã hội nhất định. Qua đó khẳng định sự ra đời của Nhà nước là một tất yếu lịch sử. Nhà nước được tồn tại dưới những kiểu và được tổ chức dưới những hình thức nhất định. Qua những vấn đề lý luận chung về Nhà nước từ đó liên hệ với nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cụ thể về đặc trưng, bản chất, tổ chức bộ máy, chức năng của Nhà nước. Học viên có thể biết được địa vị pháp lý của các cơ quan quyền lực, hành pháp, tư pháp trong bộ máy nhà nước được tổ chức như thế nào? Vị trí? thẩm quyền ra sao? Qua những vấn đề lý luận được trình bày trong tài liệu học tập người học có thể tự liên hệ với những gì liên quan đang diễn ra trong đời sống nhà nước bằng những ví dụ thực tế để minh họa. Các vấn đề lý luận về nhà nước Việt Nam đều khẳng định và làm rõ hơn “tính nhân dân” của nhà nước Việt Nam, cho thấy nhà nước Việt Nam là một nhà nước XHCN kiểu mới nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, từng cơ quan nhà nước cũng như những người làm trong các cơ quan đó đều đặt việc phục vụ lợi ích của nhân dân lên hàng đầu. Nhằm phục vụ tốt hơn nữa quyền lợi của nhân dân, nội dung chương 1 đề cập đến việc cần thiết phải cải cách bộ máy nhà nước - đây là vấn đề mà Đảng, Nhà nước và toàn xã hội rất quan tâm mà chi tiết hơn là những phương hướng và mục tiêu cụ thể. Điều này cũng đáp ứng cho việc hoàn thành mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam. Ngoài việc cải cách bộ máy nhà nước thì hệ thống chính trị cũng như các nhân tố trong hệ thống đó như Đảng cộng sản, Nhà nước, các tổ chức xã hội cũng cần phải được cải cách, đổi mới và hoàn thiện hơn nữa nhằm xây dựng 1 cơ chế thực sự dân chủ, văn minh đáp ứng ngày càng tốt hơn các nhu cầu của quần chúng nhân dân. 1/24 Lý luận chung về nhà nước BẢN CHẤT NHÀ NƯỚC, KIỂU VÀ HÌNH THỨC NHÀ NUỚC Nguồn gốc, bản chất của Nhà nước Nguồn gốc của Nhà nước Nhà nước là một hiện tượng xã hội đa dạng và phức tạp. Để có nhận thức đúng về bản chất Nhà nước, cũng như những biến động trong đời sống Nhà nước cần lý giải nhiều vấn đề trong đó nhất thiết phải làm sáng tỏ nguồn gốc hình thành Nhà nước, chỉ ra những nguyên nhân đích thực làm xuất hiện Nhà nước. Có nhiều quan điểm khác nhau giải thích về nguồn gốc của Nhà nước như các học thuyết phi mác-xít (thuyết quyền gia trưởng, thuyết thần quyền, thuyết khế ước xã hội, thuyết bạo lực...) và học thuyết của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin. Theo các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin giải thích nguồn gốc Nhà nước trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và lịch sử, đã chỉ ra rằng Nhà nước không phải là một hiện tượng xã hội vĩnh cữu, bất biến mà là một phạm trù lịch sử có quá trình phát sinh, phát triển và tiêu vong. Lịch sử xã hội loài người đã trải qua một thời kỳ chưa có Nhà nước đó là chế độ công xã nguyên thuỷ và sẽ phát triển đến giai đoạn không cần đến Nhà nước. Nhà nước nảy sinh từ trong đời sống xã hội, xuất hiện khi xã hội loài người phát triển đến một trình độ nhất định, và khi những điều kiện khách quan của sự tồn tại Nhà nước không còn nữa thì Nhà nước sẽ tiêu vong. Xã hội loài người phát triển qua nhiều hình thái kinh tế xã hội khác nhau trong đó chế độ công xã nguyên thủy là hình thái kinh tế xã hội đầu tiên không tồn tại giai cấp và Nhà nước. Trong chế độ công xã nguyên thủy do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn rất thấp kém và tình trạng bất lực của con người trước những hiện tượng thiên nhiên và thú dữ, nên để kiếm sống và tự bảo vệ mình con người buộc phải co cụm lại dựa vào nhau cùng chung sống, cùng lao động và cùng hưởng thụ những thành quả do lao động mang lại. Mọi tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động đều thuộc sở hữu chung của mọi thành viên trong cộng đồng. Tính chất xã hội trong chế độ công xã nguyên thủy còn rất đơn giản gồm có tổ chức thị tộc - là tế bào, là cơ sở cấu thành xã hội. Thị tộc được tổ chức theo nguyên tắc huyết thống, lúc đầu huyết thống được xác lập theo dòng mẹ gọi là thị tộc mẫu hệ và về sau được xác lập theo dòng cha gọi là thị tộc phụ hệ. Mỗi thành viên của thị tộc đều bình đẳng về quyền lợi và địa vị xã hội, trong xã hội không tồn tại đặc quyền, đặc lợi không có sự phân hóa giàu nghèo. Hệ thống quản lý của công xã thị tộc là Hội đồng thị tộc và tù trưởng Hội đồng thị tộc hợp thành bởi tất cả các thành viên đã trưởng thành của thị tộc là tổ chức quyền lực cao nhất của thị tộc. Tù trưởng do hội nghị toàn thể thị tộc bầu ra, được lựa chọn từ những người nhiều tuổi, có kinh nghiệm và uy tín trong cộng đồng. Tù trưởng đứng đầu thị tộc song không có đặc quyền so với các thành viên khác của thị tộc, họ cũng phải lao động và được hưởng thụ như mọi người. Quá trình phát triển xã hội công xã nguyên thuỷ đã xuất hiện hình thức tổ chức cao hơn là bào tộc, bộ lạc và liên minh bộ lạc. Xã hội công xã nguyên thủy có sự phân công lao 2/24 Lý luận chung về nhà nước động nhưng mang tính tự nhiên giữa các thành viên của thị tộc để làm những công việc thích hợp khác nhau: giữa đàn ông và đàn bà, người khỏe, người già và trẻ em. Phân công lao động chưa mang tính xã hội nên không tạo ra vị trí khác nhau của con người trong sản xuất và đời số ...

Tài liệu được xem nhiều: