Danh mục

Lý Thường Kiệt - Dấu chân trên đất Tống phần 3

Số trang: 9      Loại file: pdf      Dung lượng: 129.68 KB      Lượt xem: 14      Lượt tải: 0    
Thu Hiền

Phí tải xuống: 1,000 VND Tải xuống file đầy đủ (9 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nhìn trên bản đồ ngày nay, nước ta tiếp giáp Trung Hoa từ Đông sang Tây ở các tỉnh : Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai và Lai Châu. Đất Cao Bằng bây giờ ứng với Quảng Nguyên khi xưa, mà Quảng Nguyên khi xưa lại do các tù trưởng khê động nắm giữ, trước là Nùng Trí Cao, sau là Lưu Kỷ.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Lý Thường Kiệt - Dấu chân trên đất Tống phần 3Lý Thường Kiệt - Dấu chân trên đất TốngIII. Địa thế biên giới Tống - Việt.Nhìn trên bản đồ ngày nay, nước ta tiếp giáp TrungHoa từ Đông sang Tây ở các tỉnh : Quảng Ninh, LạngSơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai và Lai Châu. ĐấtCao Bằng bây giờ ứng với Quảng Nguyên khi xưa,mà Quảng Nguyên khi xưa lại do các tù trưởng khêđộng nắm giữ, trước là Nùng Trí Cao, sau là Lưu Kỷ.Các vùng khác về phía Tây Bắc thì biên giới cũngchưa định rõ, các tỉnh Hà Giang, Lào Cai, Lai Châungày nay cũng không phải đất của nhà Lý, cũngkhông thuộc Tống. Như vậy có thể thấy vùng biêngiới mà Tống và Lý trực tiếp giao nhau thời đó làUng Châu gồm các trại Thiên Long, Cổ Vạn tiếp giápVĩnh An, Tô Mậu (Quảng Ninh); trại Vĩnh Bình tiếpmột phần Quang Lang (Lạng Sơn, Lạng Châu) vàmột phần Quảng Nguyên (Cao Bằng); các trại TháiBình và Hoành Sơn tiếp Quảng Nguyên. Khâm Châusát trại Thiên Long và tiếp Vĩnh An của ta ở cửa ĐểTrạo. Đại khái nhìn trên bản đồ bây giờ, ta có thểthấy biên giới nước ta thời đó ôm Ung Châu và KhâmChâu của Tống bằng một phần tư đường tròn ở haitỉnh Lạng Sơn và Quảng Ninh ngày nay, mà tâmđường tròn là thành Ung Châu của Tống.Đường từ ta sang Tống, thuỷ bộ đều được. Thuỷ thìtừ sông Lục Đầu ra tới Bạch Đằng rồi men biển tớicửa Đồn Sơn (Hạ Long) ở Vĩnh An theo hướng ĐôngBắc đi độ 1 đến 2 ngày là đến vịnh Khánh Châuthuộc châu Khâm của Tống. Đường bộ thì đườngchính vẫn là đường ngày nay dùng, tức là từ ThăngLong qua sông Hồng tới Hà Bắc, rồi Quang Lang(Lạng Châu) vào trại Vĩnh Bình, mất khoảng 4 ngày.Nếu đi từ Quang Lang qua Quảng Nguyên vào TháiBình thì mất 6 ngày. Còn một đường nữa là đi quaThái Nguyên, Bắc Cạn đến Quảng Nguyên rồi vào,đường này hiểm trở, mất độ 12 ngày. Ngoài ra ta còncó đường đi từ Tô Mậu (Quảng Ninh) qua Tư Lăngvà vào trại Cổ Vạn, Thiên Long. Đó là những đườngchính đi lại giữa ta và Tống.Khi tấn công Tống, nếu ta lấy được Khâm Châu thìtheo đường Khâm Châu đến Ung Châu là gần hơn cả.Trong chiến lược tấn công Tống, Lý Thường Kiệt sửdụng cả thuỷ bộ binh, lợi dụng triệt để các quân khêđộng một cách cực hiệu quả.Tóm lại các hướng mà từ đó ta có thể đánh vào đấtTống cụ thể là : đường thuỷ đi từ Vĩnh An đến thẳngKhâm Châu, đường bộ có nhiều hướng : từ QuảngNguyên vào trại Thái Bình, Vĩnh Bình, Hoành Sơn;từ Tô Mậu vào Cổ Vạn, Thiên Long; từ Quang Lang(Lạng Châu) vào Vĩnh Bình. Vậy là có thể tấn côngcả 5 trại của Ung Châu, uy hiếp từ nhiều phía.IV. Lực lượng và chiến lược tấn công của Lý.Chính sách phủ dụ và thu phục nhân tâm các vùngkhê động của nhà Lý đã có từ lâu, xuất quân lần nàyngoài quân chính qui tinh nhuệ, còn có rất nhiều cáctù trưởng đem quân đi theo.1. Quân đội triều đình.Thời Lý dùng dân quân là chính, ngụ binh ư nông,quân khi vô sự thì về nhà cày cấy trồng trọt để tự cấp,khi hữu sự lại gọi ra lính. Quân số thời Lý khôngnhiều, Đại Việt sử ký toàn thư ước độ 7 vạn, chủ yếutập trung ở hạ du. Ngoài ra còn có cấm binh bảo vệcấm thành và nhà vua (thiên tử binh), khoảng vàingàn, đợt tấn công này chắc không có cấm binh vìnhà vua còn nhỏ. Tổ chức quân đội thời đó khá qui củvà tài tình, Tống sử ghi : ...Thái Duyên Khánh là trichâu ở An Nam, bắt chước qui chế chia ra làm từngbộ phận, chia chính binh, cung tiễn phủ nhận mãđoàn làm chín phủ. Hợp trăm đội chia làm tả, hữu,tiền, hậu 4 bộ. Mã đội có trú chiến, thác chiến khácnhau. Tướng nào cũng có lịch bộ, quân kị, khígiới.Vua Thần Tông ( Tống ) khen phải .Quân đội như thế phải nói là tinh nhuệ, vả lại thời Lý,chinh chiến liên miên, bình Chiêm dẹp loạn, đi đâucũng thắng, lần này đánh Tống lại tập trung quân cảnước, lại thêm Lý Thường Kiệt là tướng tài bậc nhấtbấy giờ chỉ huy, thanh thế rất lớn.2. Quân khê động (thổ binh).Từ khi mới lập nước, các vua Lý luôn chú trọng đếnviệc ước kết nhân tâm các tù trưởng miền núi, cả ràngbuộc hôn nhân (gả công chúa cho các tù trưởng, lấycon gái của họ làm phi tần...) lẫn biện pháp trấn ápquân sự đều được sử dụng một cách hài hoà. Mấychục năm trước, họ Nùng ở Quảng Nguyên nổi loạn,Nùng Tồn Phúc bị dẹp, con là Trí Cao lại làm loạn,vua Lý tha cho nhiều lần, rồi sau đánh cả sang Tống,mãi mới bị đại tướng Tống là Địch Thanh phá. Đếnthời Lý Thường Kiệt, các tù trưởng đều thần phụcLý, tiêu biểu có Lưu Kỷ ở Quảng Nguyên, phò mãThân Cảnh Phúc ở Lạng Châu, Vi Thủ An ở Tô Mậu.Cùng theo quân Lý tiến công vào Tống lần này, quânsố khê động không biết là bao nhiêu, chỉ biết rằng thổquân đi trận, mang cả vợ con đi theo. Có người nóivới Vương An Thạch : ...Khi Giao Chỉ vào cướp,quân có sáu vạn, trong đó có nhiều đàn bà, trẻ con.Man dân kéo hết cả nhà di theo, chỉ để một vài ngườiốm yếu ở nhà... đó là chỉ quân khê động.Tổng số quân lần này sang Tống, mỗi sách chép mộtkhác, Tống thì bảo 6-8 vạn, sử ta chép 10 vạn, nhưngvì số phu phen thường không cố định, nên ta ướcchừng 8-10 vạn người. Lương thảo thì ta đoán quânkhê động không cày cấy gì, đi tớ ...

Tài liệu được xem nhiều: