Mạng cảm biến Nhúng
Số trang: 9
Loại file: pdf
Dung lượng: 412.01 KB
Lượt xem: 17
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Mạng cảm biến nhúng là mạng các máy tính nhúng triển khai trong thế giới thực nhằm tương tác với môi trường. Các máy tính trong vai trò những nút mạng cảm biến thực chất là một kiểu vi mạch tích hợp có kèm các cảm biến và những thiết bị chấp hành. Những vi mạch tích hợp này có kích thước rất bé và giá tương đối rẻ. Các nút cảm biến được đặt gần đối tượng cảm nhận và được kết nối thành mạng cho phép truyền dữ liệu cho nhau, cùng làm công việc giám sát môi...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Mạng cảm biến Nhúng Mạng cảm biến NhúngGiới thiệu:Gần đây mạng cảm biến nhúng được nghiên cứu ở nhiều nơi và được bàn thảo ở nhiềudiễn đàn. Để có cái nhìn đầy đủ về mạng cảm biến nhúng chúng tôi xin giới thiệu bài viếtsau đây [1].Mạng cảm biến nhúng là mạng các máy tính nhúng triển khai trong thế giới thực nhằmtương tác với môi trường. Các máy tính trong vai trò những nút mạng cảm biến thực chấtlà một kiểu vi mạch tích hợp có kèm các cảm biến và những thiết bị chấp hành. Những vimạch tích hợp này có kích thước rất bé và giá tương đối rẻ. Các nút cảm biến được đặtgần đối tượng cảm nhận và được kết nối thành mạng cho phép truyền dữ liệu cho nhau,cùng làm công việc giám sát môi trường và có thể tác động lại môi trường. Các nút mạngcảm biến hiện nay thường ở dạng tĩnh, mặc dù chúng có thể gắn lên đối tượng chuyểnđộng hoặc tự chúng có thể chuyển động. Để có được những tính chất này cần nhúngchương trình vào nút mạng để nó có khả năng cảm nhận, chấp hành và truyền dữ liệu, đólà sự khác biệt của mạng cảm biến với các laptop dùng để tính toán hoặc các hệ thốngcảm biến tập trung truyền thống.Việc nghiên cứu về mạng cảm biến bắt đầu từ những năm 1990 hoặc sớm hơn, tuy nhiênthực sự tăng mạnh từ năm 2000 trở lại đây. Vào lúc đó một nút mạng bao gồm CPU, đầuđo và truyền nhận vô tuyến giá khoảng 1000$. Đến 2004 thì những nghiên cứu đã thực sựtrở nên sôi động, các khuôn dạng phần cứng, phần mềm được thiết lập tốt, những quantâm về thương mại gia tăng. Những lĩnh vực được quan tâm nghiên cứu nhất là quân sự,khoa học và thương mại cho những ứng dụng giám sát thuộc tính sinh học, nông nghiệpvà các quá trình công nghiệp.Mạng cảm biến đối mặt với ba thách thức: mức tiêu thụ năng lượng phải nhỏ; Cảm nhậnvà tương tác với thế giới vật lý thế nào, làm việc theo thuật toán xử lý dữ liệu như thế nàođể khai thác sự phong phú, đa dạng bức tranh về môi trường; Mạng phải tự cấu hình vớiquy mô hàng chục, trăm, nghìn nút như một tổng thể.Phần cứng.Một phần cứng gồm vi điều khiển, đầu đo, thu phát vô tuyến trên cùng nút mạng là sựthuận lợi cho mạng cảm biến cả trong thương mại và nghiên cứu. Một nút mạng gồmCPU +RAM, ROM + I/O + thu phát RF. Thường có 2 loại nút mạng cảm biến, loại nhỏvới CPU 8 bit, 10-100KB RAM, và loại lớn với CPU 32 bit, 100-1000KB ROM-Fash.Thí dụ loại nhỏ là Mica-2 motes sử dụng Atmega128 embedded processor, tốc độ nhịp4MHz, 128KB Flash, 4KB RAM, 8-channels ADC, 48 digital I/O lines, một UART vàmột giao diện nối tiếp SPI. Các Motes đã phát triển hàng chục năm qua tại đại họcBerkeley, hiện nay là sản phẩm thương mại của các công ty như Crossbow, DustNetworks, và Telos. Nhiều viện nghiên cứu cũng chế tạo sản phẩm tương tự là Nymph từđại học Colorado [2], và BTnodes từ ETH Zurich [3])Loại lớn như sản phẩm của Stargate (do Intel thiết kế theo công nghệ Crossbow) hoặcCerfcube (từ Intrinsyc). Các thiết bị này được dùng trong nhiều ứng dụng nhúng, dùnglàm gateways để thu thập dữ liệu từ các nút hoặc cho các ứng dụng đòi hỏi nhiều về việcxử lý tín hiệu.Quản trị công suất là mối quan tâm đối với cả 2 loại nút mạng nói trên. Để quản trị côngsuất phải điều khiển riêng các thành phần phần cứng (CPU, RAM, Flash, radio, sensors).Nguồn nuôi nút mạng thường là pin hoặc acquy và nhu cầu cấp năng lượng bằng pin mặttrời hoặc từ nguồn khác trở nên quan trọng.Các cảm biến - SensorsCảm biến phải đồng thời được thu nhỏ kích thước như phần vô tuyến (radios) và bộ xử lý(processors). Sự xuất hiện của cảm biến dạng vi cơ điện tử (MEMS sensors) đáp ứng yêucầu này. Nhiều sensors dạng MEMS đã làm việc cùng các nút mạng. Mặc dù có rất nhiềudạng sensor khác nhau nhưng chúng đều có một nguyên lý thao tác như nhau: khi môitrường thay đổi kéo theo sự thay đổi thuộc tính điện của các vật liệu được chọn thích ứng.Các sensors kết hợp các mạch điện để phát hiện sự thay đổi thuộc tính điện và đượcchuẩn hóa để đo chính xác các hiện tượng môi trường tương ứng. Thí dụ sensor nhiệt độdựa vào sự thay đổi điện trở theo nhiệt độ trong vật liệu đặc biệt. Việc lựa chọn vật liệuloại nào (từ kim loại đến bán dẫn) là tùy theo yêu cầu về vùng cảm nhận và độ nhạy.Cũng như vậy, một sensor ánh sáng sử dụng vật liệu quang dẫn có đặc tính điện thay đổitheo lượng ánh sáng chiếu vào. Các sensor gia tốc, đo điện thế sinh ra do sự biến dạngcấu trúc của vật liệu áp điện, những biến dạng sinh ra do rung động hoặc gia tốc.Hiện có một nền công nghiệp to lớn dành cho việc chế tạo các Sensors MEMS nhỏ bé.Công nghiệp này được chia theo loại ứng dụng (thí dụ các công ty như Delphi chế tạosensors cho tự động hóa) hoặc theo loại sensor (thí dụ Silicon Designs tập trung chế tạosensors độ rung) và một số công ty (thí dụ Ember và Millenial Net), chú trọng vào cácứng dụng mạng cảm biến không dây. 3. Phần mềm và các giao thức -Software and Protocols.Sử dụng phương pháp hệ thống để mô tả các thành phần ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Mạng cảm biến Nhúng Mạng cảm biến NhúngGiới thiệu:Gần đây mạng cảm biến nhúng được nghiên cứu ở nhiều nơi và được bàn thảo ở nhiềudiễn đàn. Để có cái nhìn đầy đủ về mạng cảm biến nhúng chúng tôi xin giới thiệu bài viếtsau đây [1].Mạng cảm biến nhúng là mạng các máy tính nhúng triển khai trong thế giới thực nhằmtương tác với môi trường. Các máy tính trong vai trò những nút mạng cảm biến thực chấtlà một kiểu vi mạch tích hợp có kèm các cảm biến và những thiết bị chấp hành. Những vimạch tích hợp này có kích thước rất bé và giá tương đối rẻ. Các nút cảm biến được đặtgần đối tượng cảm nhận và được kết nối thành mạng cho phép truyền dữ liệu cho nhau,cùng làm công việc giám sát môi trường và có thể tác động lại môi trường. Các nút mạngcảm biến hiện nay thường ở dạng tĩnh, mặc dù chúng có thể gắn lên đối tượng chuyểnđộng hoặc tự chúng có thể chuyển động. Để có được những tính chất này cần nhúngchương trình vào nút mạng để nó có khả năng cảm nhận, chấp hành và truyền dữ liệu, đólà sự khác biệt của mạng cảm biến với các laptop dùng để tính toán hoặc các hệ thốngcảm biến tập trung truyền thống.Việc nghiên cứu về mạng cảm biến bắt đầu từ những năm 1990 hoặc sớm hơn, tuy nhiênthực sự tăng mạnh từ năm 2000 trở lại đây. Vào lúc đó một nút mạng bao gồm CPU, đầuđo và truyền nhận vô tuyến giá khoảng 1000$. Đến 2004 thì những nghiên cứu đã thực sựtrở nên sôi động, các khuôn dạng phần cứng, phần mềm được thiết lập tốt, những quantâm về thương mại gia tăng. Những lĩnh vực được quan tâm nghiên cứu nhất là quân sự,khoa học và thương mại cho những ứng dụng giám sát thuộc tính sinh học, nông nghiệpvà các quá trình công nghiệp.Mạng cảm biến đối mặt với ba thách thức: mức tiêu thụ năng lượng phải nhỏ; Cảm nhậnvà tương tác với thế giới vật lý thế nào, làm việc theo thuật toán xử lý dữ liệu như thế nàođể khai thác sự phong phú, đa dạng bức tranh về môi trường; Mạng phải tự cấu hình vớiquy mô hàng chục, trăm, nghìn nút như một tổng thể.Phần cứng.Một phần cứng gồm vi điều khiển, đầu đo, thu phát vô tuyến trên cùng nút mạng là sựthuận lợi cho mạng cảm biến cả trong thương mại và nghiên cứu. Một nút mạng gồmCPU +RAM, ROM + I/O + thu phát RF. Thường có 2 loại nút mạng cảm biến, loại nhỏvới CPU 8 bit, 10-100KB RAM, và loại lớn với CPU 32 bit, 100-1000KB ROM-Fash.Thí dụ loại nhỏ là Mica-2 motes sử dụng Atmega128 embedded processor, tốc độ nhịp4MHz, 128KB Flash, 4KB RAM, 8-channels ADC, 48 digital I/O lines, một UART vàmột giao diện nối tiếp SPI. Các Motes đã phát triển hàng chục năm qua tại đại họcBerkeley, hiện nay là sản phẩm thương mại của các công ty như Crossbow, DustNetworks, và Telos. Nhiều viện nghiên cứu cũng chế tạo sản phẩm tương tự là Nymph từđại học Colorado [2], và BTnodes từ ETH Zurich [3])Loại lớn như sản phẩm của Stargate (do Intel thiết kế theo công nghệ Crossbow) hoặcCerfcube (từ Intrinsyc). Các thiết bị này được dùng trong nhiều ứng dụng nhúng, dùnglàm gateways để thu thập dữ liệu từ các nút hoặc cho các ứng dụng đòi hỏi nhiều về việcxử lý tín hiệu.Quản trị công suất là mối quan tâm đối với cả 2 loại nút mạng nói trên. Để quản trị côngsuất phải điều khiển riêng các thành phần phần cứng (CPU, RAM, Flash, radio, sensors).Nguồn nuôi nút mạng thường là pin hoặc acquy và nhu cầu cấp năng lượng bằng pin mặttrời hoặc từ nguồn khác trở nên quan trọng.Các cảm biến - SensorsCảm biến phải đồng thời được thu nhỏ kích thước như phần vô tuyến (radios) và bộ xử lý(processors). Sự xuất hiện của cảm biến dạng vi cơ điện tử (MEMS sensors) đáp ứng yêucầu này. Nhiều sensors dạng MEMS đã làm việc cùng các nút mạng. Mặc dù có rất nhiềudạng sensor khác nhau nhưng chúng đều có một nguyên lý thao tác như nhau: khi môitrường thay đổi kéo theo sự thay đổi thuộc tính điện của các vật liệu được chọn thích ứng.Các sensors kết hợp các mạch điện để phát hiện sự thay đổi thuộc tính điện và đượcchuẩn hóa để đo chính xác các hiện tượng môi trường tương ứng. Thí dụ sensor nhiệt độdựa vào sự thay đổi điện trở theo nhiệt độ trong vật liệu đặc biệt. Việc lựa chọn vật liệuloại nào (từ kim loại đến bán dẫn) là tùy theo yêu cầu về vùng cảm nhận và độ nhạy.Cũng như vậy, một sensor ánh sáng sử dụng vật liệu quang dẫn có đặc tính điện thay đổitheo lượng ánh sáng chiếu vào. Các sensor gia tốc, đo điện thế sinh ra do sự biến dạngcấu trúc của vật liệu áp điện, những biến dạng sinh ra do rung động hoặc gia tốc.Hiện có một nền công nghiệp to lớn dành cho việc chế tạo các Sensors MEMS nhỏ bé.Công nghiệp này được chia theo loại ứng dụng (thí dụ các công ty như Delphi chế tạosensors cho tự động hóa) hoặc theo loại sensor (thí dụ Silicon Designs tập trung chế tạosensors độ rung) và một số công ty (thí dụ Ember và Millenial Net), chú trọng vào cácứng dụng mạng cảm biến không dây. 3. Phần mềm và các giao thức -Software and Protocols.Sử dụng phương pháp hệ thống để mô tả các thành phần ...
Gợi ý tài liệu liên quan:
-
33 trang 222 0 0
-
Báo cáo thực tập tại Nhà máy in Quân Đội 1
36 trang 206 0 0 -
Đồ án tốt nghiệp: Điều khiển cầu trục giàn RTG dùng PLC S71200
90 trang 204 1 0 -
127 trang 192 0 0
-
Đồ án tốt nghiệp Công nghệ kỹ thuật điện tử: Bảng điện tử hiển thị thông tin thời tiết
56 trang 170 0 0 -
59 trang 163 0 0
-
Giáo trình kỹ thuật số - Phần 1 Đại số Boolean và vi mạch số - Chương 2
10 trang 158 0 0 -
9 trang 154 0 0
-
Báo cáo Thực tập Tốt nghiệp: Tìm hiểu động cơ đồng bộ
60 trang 152 0 0 -
137 trang 142 0 0