(1866-1944) Wassily [hay Vassili] Kandinsky (Vasily Vasilyevich Kandinsky) nhà danh hoạ gốc Nga, là một trong những người đầu tiên sáng tạo lối vẽ trừu tượng của hội hoạ hiện đại. Sinh ra trong một gia đình yêu âm nhạc, với song thân của ông chơi dương cầm và thụ cầm, Kandinsky đã học dương cầm và trung hồ cầm từ thuở nhỏ và trở thành một nhạc sĩ điêu luyện trước khi dấn thân vào sự nghiệp hội hoạ.
...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Mĩ thuật: TÁC DỤNG CỦA MÀU SẮC
TÁC DỤNG CỦA MÀU SẮC
Wassily Kandinsky
Bản dịch Hoàng Ngọc Biên
WASSILY KANDINSKY
(1866-1944)
Wassily [hay Vassili] Kandinsky (Vasily Vasilyevich Kandinsky) nhà
danh hoạ gốc Nga, là một trong những người đầu tiên sáng tạo lối vẽ
trừu tượng của hội hoạ hiện đại. Sinh ra trong một gia đình yêu âm
nhạc, với song thân của ông chơi dương cầm và thụ cầm, Kandinsky đã
học dương cầm và trung hồ cầm từ thuở nhỏ và trở thành một nhạc sĩ
điêu luyện trước khi dấn thân vào sự nghiệp hội hoạ.
Âm nhạc đã ảnh hưởng rất nhiều đến nghệ thuật hội hoạ của ông.
Kandinsky đã từng nói: Âm nhạc là người thầy tối thượng, và Màu
sắc là phím đàn, mắt là cái búa đập lên nó, tâm hồn là thứ nhạc khí có
muôn ngàn dây cung. Còn người nghệ sĩ, hắn là bàn tay nhờ có phím
này hay phím nọ mà có được sự rung động đúng điệu của tâm hồn.
Trong lịch sử của nhân loại, ý niệm về sự tương quan giữa màu sắc và
hoà âm đã được nhiều người lưu ý đến và đã gây cảm hứng cho đến cả
một số nhà khoa học, như Isaac Newton, chẳng hạn. Tuy nhiên,
Kandinsky là người đầu tiên áp dụng ý niệm này vào thực hành hội hoạ
với một lý thuyết độc đáo mà ông đã diễn giải qua nhiều bài viết.
TÁC DỤNG CỦA MÀU SẮC
Ta hãy nhìn vào một bảng pha màu vẽ phủ đầy màu sắc. Có hai hậu quả
song song xảy ra:
1. Về phương diện thuần vật chất, con mắt cảm giác màu sắc. Mắt cảm
thấy được những đặc tính của màu sắc và thích thú vì vẻ đẹp của nó.
Niềm vui len vào tâm hồn của kẻ thưởng ngoạn đang nếm nó như một
người sành sõi nếm đồ ăn ngon. Con mắt nhận một sự kích thích giống
như tác dụng mà một thức ăn có gia vị gây ra trên khẩu cái. Nhưng nó
cũng rất có thể vì đó mà trở nên tĩnh lặng và lạnh mát như một ngón tay
khi đụng tới nước đá. Vậy cảm tưởng này hoàn toàn thuộc vật chất,
cũng như mọi thứ cảm giác, trong kỳ hạn ngắn, và chỉ ở trên bề mặt.
Tâm hồn vừa trở lại khép kín thì cảm tưởng đó cũng tan biến không để
lại một dấu vết.
Trong khi đụng vào nước đá, người ta chỉ có thể có một cảm giác lạnh
vật chất. Khi ngón tay trở lại nóng, cảm giác đã bị quên đi. Khi mắt
không còn thấy màu sắc, tác dụng vật chất của màu sơn cũng ngưng lại.
Cảm giác vật chất về cái lạnh của nước đá, khi đi vào một cách sâu
đậm, nó làm thức dậy những cảm tưởng khác càng ngày càng mạnh
hơn và có thể khởi phát cả một chuỗi những biến cố tâm linh. Cảm
tưởng hời hợt trên bề mặt về màu sắc và sự phát triển cảm tưởng đó
cũng giống như vậy.
Với một cảm năng ở mức trung bình, những đồ vật quen thuộc có một
tác dụng hời hợt, trong khi những đồ vật mà ta trông thấy lần đầu tiên
gây ra nơi ta một ấn tượng sâu đậm. Bởi vậy đứa bé khi thấy rằng mỗi
đồ vật đối với nó đều là những thứ đồ mới thì cảm thấy được thực tại
của thế giới. Ánh sáng thu hút nó, nó muốn bắt được ánh sáng và nó bị
bỏng những ngón tay. Thế là từ đó đối với ngọn lửa nó sẽ thấy sợ và
thấy nể. Nó sẽ biết rằng ánh sáng không phải chỉ có thể làm hại, mà còn
đuổi mất bóng tối và kéo dài buổi ban ngày, và lại có thể đun nóng, nấu
chín và đôi khi tạo được một cảnh tượng vui mắt. Sau kinh nghiệm đó,
nó sẽ làm quen với ánh sáng và những gì nó biết được về ánh sáng sẽ
được nó ghi vào trong óc não. Cường độ của sự thích thú giảm dần và
biến mất. Cảnh tượng ngọn lửa còn tranh đấu chống lại sự dửng dưng,
nhưng nó đã mất một cách lặng lẽ vẻ quyến rũ của nó. Dần dần, thế
giới tỉnh mộng. Bấy giờ rốt cuộc người ta mới biết rằng cây cối cho
bóng mát, rằng ngựa chạy nhanh, rằng xe hơi còn chạy nhanh hơn nữa,
rằng chó thì cắn, mặt trăng thì ở xa, và con người mà ta thấy trong mặt
kính chỉ là một dáng bên ngoài.
Con người càng phát triển và hoàn thành mình, phạm vi những đặc tính
mà hắn nhận biết được nơi người ta và sự vật cũng lớn lên. Người ta và
sự vật khoác một ý nghĩa và rốt cuộc ý nghĩa đó tan ra thành một âm
vang trong nội tâm.
Màu sắc đối với một cảm năng thô lỗ chỉ có những tác dụng hời hợt và,
sự kích thích một khi đã biến mất, thì những tác dụng đó cũng tiêu tán.
Dù là sơ đẳng, những tác dụng đó cũng biến đổi. Những màu sáng thu
hút con mắt nhìn và giữ được nó hơn. Những màu sáng và nóng còn
giữ được mắt hơn nữa: cũng như ngọn lửa thu hút con người một cách
không làm sao cản được, màu đỏ son lôi cuốn và kích thích cái nhìn.
Màu vàng chanh tươi làm chói mắt. Mắt không chịu nổi màu đó. Người
ta có thể bảo như một lỗ tai bị xé rách bởi giọng kèn chát chúa. Mắt
nhìn nhấp nháy và sẽ đắm trong những vùng sâu hút yên tĩnh của màu
lam và màu xanh.
2. Cái tâm linh mà màu sắc đang tác dụng càng được khai hoá thì cảm
xúc mà tác dụng sơ đẳng đó gây ra trong tâm hồn càng sâu đậm. Trong
trường hợp này nó được có thêm một tác dụng tâm linh thứ hai. Vậy
nên màu sắc gây ra một sự rung cảm tâm linh. Và hiệu ứng vật chất hời
hợt của nó, tóm lại, chỉ là con đường nó dùng để đi tới tâm hồn. Nếu
tác dụng thứ hai này thật sự là một tác dụng trực tiếp, như người ta vẫn
có quyền giả dụ theo những gì người ta vừa mới được trông thấy, hay
trái lại, nếu nó chỉ được tiếp nhận do liên tưởng, thì thật khó mà phân
định được. Bởi tâm hồn vốn liên kết chặt chẽ với thể xác, một cảm xúc
nào đó bao giờ cũng có thể do liên tưởng mà gây ra một cảm xúc khác
đáp ứng lại. Màu đỏ, chẳng hạn, vì ngọn lửa có màu đỏ, có thể khởi
phát một sự rung cảm nội tâm giống như chấn động của ngọn lửa. Màu
đỏ nóng có một tác dụng kích thích. Chắc hẳn, bởi vì nó giống màu
máu, nên ấn tượng mà nó tạo ra có thể là khó nhọc, có thể bảo là đau
đớn nữa. Màu sắc, ở đây, đánh thức ký ức của một nguyên động lực vật
chất khác đang gây một tác dụng khó nhọc nơi tâm hồn.
Nếu lúc nào cũng như vậy, thật dễ mà cắt nghĩa bằng liên tưởng tất cả
những hiệu ứng vật chất của màu sắc không những chỉ trên thị giác mà
còn trên những giác quan khác. Chẳng hạn bảo rằng màu vàng sáng cho
ta một ấn tượng chua và the bởi vì nó làm ta nghĩ đến một quả chanh,
đó là một lối giải thích cần phải gạt bỏ.
Về vị của màu sắc, những thí dụ cũng không thiếu gì, nhưng trong
những thí dụ đó lối giải thích kia cũng không có giá trị gì ...