MIỀN ĐẤT HUYỀN ẢO - Các dân tộc miền núi Nam Đông Dương - Phần 8
Số trang: 15
Loại file: pdf
Dung lượng: 4.79 MB
Lượt xem: 7
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Thuốc độc và thuốc giải độcTùy theo bộ phận được sử dụng, hay tùy theo cách sử dụng, nhiều loại cây thuốc là những thứ thuốc độc. Thứ thuốc độc được biết đến ở vùng người Srê là böng kit. Nói như thế không phải là nó thường được sử dụng: quả thật rất ít khi có chuyện đầu độc; nói chung, các loại thuốc độc được sử dụng trong các trường hợp tự sát nhiều hơn là gây tội ác. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
MIỀN ĐẤT HUYỀN ẢO - Các dân tộc miền núi Nam Đông Dương - Phần 8PHầN VIII Tác giả: Dam Bo --- Đ ã xem: 24 lượt Thuốc độc và thuốc giải độc Tùy theo bộ phận được sử dụng, hay tùy theo cách sử dụng, nhiều loại cây thuốc là những thứ thuốc độc. Thứ thuốc độc được biết đến ở vùng người Srê là böng kit. Nói như thế không phải là nó thường được sử dụng: quả thật rất ít khi có chuyện đầu độc; nói chung, các loại thuốc độc được sử dụng trong các trường hợp tự sát nhiều hơn là gây tội ác. Cây böngê kin (Jasminum longisetum - Oléacée) khác với loại böngê ăn được, chống sốt rét, có một chất độc trong lá; ăn lá đó tức là tự sát. Ðể có tác dụng tức thì, phải mua của lá chất độc ấy; để làm việc đó, người ta cho cây một ít than và buộc vào thân nó một chiếc nhẫn. Sau đó chỉ cần hái vài lá và ăn: sẽ tức khắc buồn ngủ, đầu óc quay cuồng và chết. Ôpkam là một chất độc chết người; lá này đem nấu sẽ xông lên một thứ hơi làm ngạt thở; jar là quả của một loại dây leo. Ðây là một chất độc mạnh; nó đặc biệt được dùng để tẩm các mũi tên của người Mạ; vỏ câyköda, cây söntur (một loại cây dương xỉ), quả gọi là blön kliu (một loại cà tím) là những chất độc nhẹ hơn. Chất giải độc duy nhất được biết hình như là da trâu. Da trâu, nhất là trâu già, được làm cứng lại, nấu chín và tưới rượu cần, ăn vào sẽ có khả năng giải độc. Thuốc cho súc vật - Người Tây Nguyên coi con trâu của mình như một người thân. Ðây là tôi nói về người Srê, là những người làm ruộng nước và cày; những người Tây Nguyên làm rẫy chỉ dùng trâu để giết (cúng thần) không gắn bó với con vật này bằng. Một con trâu bị ốm, việc cày bừa bị đình trệ, là mùa màng cũng bị hại. Hơn nữa, đáng sợ là bệnh dịch, chỉ trong vài ngày có thể sẽ làm tan tành tất cả. Ðể chữa bệnh cho con vật bị ốm, nếu cần người Srê không hề ngần ngại đi xa tìm cho ra cây thuốc thích hợp và cúng hiến tốn kém, chẳng khác g ì chữa bệnh cho một con người. Cây töbung chữa trị cho con trâu gầy đến sắp chết. Lá töbung chữa được bệnh. Người ta trộn cơm với vài lá này rồi viên thành những viên nhỏ. Muốn thuốc có tác 106dụng, thì phải cho trâu ăn vào nửa đêm và không được để cho ai thấy.Cây köda, vỏ là một thứ thuốc độc đối với con người, lại là một thứ thuốc chungcác thứ bệnh của trâu; mùi hăng nồng của nó xua bệnh đi.Rit, tức con dơi, là một trong các loại thuốc quý nhất. Phải t ìm được một con dơichết - chứ không được giết nó. Người ta nhúng nó trong nước, rồi xát thứ nướcchữa bệnh ấy lên mình trâu. Ðấy là một món quà của Thần, một ân huệ.Người Tây Nguyên đánh thuốc con chó của mình, nhưng vì những mục đích khác.Họ trộn vào thức ăn của nó một thứ sönöm có thể làm cho nó nhanh nhẹn khi đisăn, đuổi bắt được thỏ, sóc và nai, và để cho nó đánh hơi thính hơn.Sönöm jak so là những loại cây có củ, rất giống với các loại cây dùng làm dượcphẩm cho người. Cho chó ăn phân hổ sẽ khiến nó phát triển sức mạnh trong khi sănđuổi.Chữa bệnh mà không dùng thuốc - Các kỹ thuật chữa bệnh của người TâyNguyên rất đa dạng. Ngoài các sản phẩm hóa chất đó, người ta còn dùng cácphương pháp vật lý: xoa bóp, xát, ấn, đấm...Cách thức đơn giản nhất để chữa đau ở vùng rốn là tự đánh hay nhờ người khácđánh vào phía dưới thận liên tục. Ðể trị đau đầu, người ta rứt tóc khiến da đầu pháttiếng kêu tanh tách. Trị đau dạ dày, người ta ấn hoặc kéo da bụng.Do tin rằng căn bệnh được cụ thể hóa bằng một vật nhỏ (viên sỏi, hạt gạo, v.v. màngười Tây Nguyên coi như những con vi trùng), người ta cho là phải trục những vậtấy ra thì mới lành được bệnh. Như để trị chứng đau nửa đầu, người ta phải lấy rađược cái hạt gạo bé tí là nguyên nhân của bệnh ấy ở trán, ngực hay lưng. Thôngthường một người thân của người bệnh làm việc đó: anh ta dùng một con dao, khứamột vết nhỏ trên da người bệnh để trục cái mầm bệnh ấy ra: có khi họ chẳng t ìmđược gì cả; nhưng họ nặn ra một ít máu và bảo rằng con vi trùng đã hòa tan trongmáu ấy cần phải trục ra. Ðôi khi công việc này là của người thầy cúng; nhưng ôngta thực hiện bằng cách hút.Ở vùng Bana, người thầy cúng lấy cái đau ra, làm lành một vết thương bằng cách 107cho nó vào trong một cái ống và vứt ra xa. Bệnh kiết lỵ được bà thầy cúng chữabằng cách nhổ con vi trùng ra khỏi người bệnh. Con vi trùng ấy gọi là bödruh. Ởvùng Xơđăng, người thầy cúng thậm chí chữa bệnh từ xa bằng cách chỉ dùng đếnmột chiếc áo của người bệnh coi như người làm chứng.Ðôi khi người Tây Nguyên chữa bệnh bằng cách trừng phạt. Như để chữa viêm dado lá cây bangchai gây ra, họ có thể không cần dùng đến thuốc römit, mà đi phạtcái cây đã gây ra bệnh. Họ tìm đến chỗ cái cây có tội ấy, ho àn toàn trần truồng, vàném đất vào thân cây. Ðể không phải nhìn thấ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
MIỀN ĐẤT HUYỀN ẢO - Các dân tộc miền núi Nam Đông Dương - Phần 8PHầN VIII Tác giả: Dam Bo --- Đ ã xem: 24 lượt Thuốc độc và thuốc giải độc Tùy theo bộ phận được sử dụng, hay tùy theo cách sử dụng, nhiều loại cây thuốc là những thứ thuốc độc. Thứ thuốc độc được biết đến ở vùng người Srê là böng kit. Nói như thế không phải là nó thường được sử dụng: quả thật rất ít khi có chuyện đầu độc; nói chung, các loại thuốc độc được sử dụng trong các trường hợp tự sát nhiều hơn là gây tội ác. Cây böngê kin (Jasminum longisetum - Oléacée) khác với loại böngê ăn được, chống sốt rét, có một chất độc trong lá; ăn lá đó tức là tự sát. Ðể có tác dụng tức thì, phải mua của lá chất độc ấy; để làm việc đó, người ta cho cây một ít than và buộc vào thân nó một chiếc nhẫn. Sau đó chỉ cần hái vài lá và ăn: sẽ tức khắc buồn ngủ, đầu óc quay cuồng và chết. Ôpkam là một chất độc chết người; lá này đem nấu sẽ xông lên một thứ hơi làm ngạt thở; jar là quả của một loại dây leo. Ðây là một chất độc mạnh; nó đặc biệt được dùng để tẩm các mũi tên của người Mạ; vỏ câyköda, cây söntur (một loại cây dương xỉ), quả gọi là blön kliu (một loại cà tím) là những chất độc nhẹ hơn. Chất giải độc duy nhất được biết hình như là da trâu. Da trâu, nhất là trâu già, được làm cứng lại, nấu chín và tưới rượu cần, ăn vào sẽ có khả năng giải độc. Thuốc cho súc vật - Người Tây Nguyên coi con trâu của mình như một người thân. Ðây là tôi nói về người Srê, là những người làm ruộng nước và cày; những người Tây Nguyên làm rẫy chỉ dùng trâu để giết (cúng thần) không gắn bó với con vật này bằng. Một con trâu bị ốm, việc cày bừa bị đình trệ, là mùa màng cũng bị hại. Hơn nữa, đáng sợ là bệnh dịch, chỉ trong vài ngày có thể sẽ làm tan tành tất cả. Ðể chữa bệnh cho con vật bị ốm, nếu cần người Srê không hề ngần ngại đi xa tìm cho ra cây thuốc thích hợp và cúng hiến tốn kém, chẳng khác g ì chữa bệnh cho một con người. Cây töbung chữa trị cho con trâu gầy đến sắp chết. Lá töbung chữa được bệnh. Người ta trộn cơm với vài lá này rồi viên thành những viên nhỏ. Muốn thuốc có tác 106dụng, thì phải cho trâu ăn vào nửa đêm và không được để cho ai thấy.Cây köda, vỏ là một thứ thuốc độc đối với con người, lại là một thứ thuốc chungcác thứ bệnh của trâu; mùi hăng nồng của nó xua bệnh đi.Rit, tức con dơi, là một trong các loại thuốc quý nhất. Phải t ìm được một con dơichết - chứ không được giết nó. Người ta nhúng nó trong nước, rồi xát thứ nướcchữa bệnh ấy lên mình trâu. Ðấy là một món quà của Thần, một ân huệ.Người Tây Nguyên đánh thuốc con chó của mình, nhưng vì những mục đích khác.Họ trộn vào thức ăn của nó một thứ sönöm có thể làm cho nó nhanh nhẹn khi đisăn, đuổi bắt được thỏ, sóc và nai, và để cho nó đánh hơi thính hơn.Sönöm jak so là những loại cây có củ, rất giống với các loại cây dùng làm dượcphẩm cho người. Cho chó ăn phân hổ sẽ khiến nó phát triển sức mạnh trong khi sănđuổi.Chữa bệnh mà không dùng thuốc - Các kỹ thuật chữa bệnh của người TâyNguyên rất đa dạng. Ngoài các sản phẩm hóa chất đó, người ta còn dùng cácphương pháp vật lý: xoa bóp, xát, ấn, đấm...Cách thức đơn giản nhất để chữa đau ở vùng rốn là tự đánh hay nhờ người khácđánh vào phía dưới thận liên tục. Ðể trị đau đầu, người ta rứt tóc khiến da đầu pháttiếng kêu tanh tách. Trị đau dạ dày, người ta ấn hoặc kéo da bụng.Do tin rằng căn bệnh được cụ thể hóa bằng một vật nhỏ (viên sỏi, hạt gạo, v.v. màngười Tây Nguyên coi như những con vi trùng), người ta cho là phải trục những vậtấy ra thì mới lành được bệnh. Như để trị chứng đau nửa đầu, người ta phải lấy rađược cái hạt gạo bé tí là nguyên nhân của bệnh ấy ở trán, ngực hay lưng. Thôngthường một người thân của người bệnh làm việc đó: anh ta dùng một con dao, khứamột vết nhỏ trên da người bệnh để trục cái mầm bệnh ấy ra: có khi họ chẳng t ìmđược gì cả; nhưng họ nặn ra một ít máu và bảo rằng con vi trùng đã hòa tan trongmáu ấy cần phải trục ra. Ðôi khi công việc này là của người thầy cúng; nhưng ôngta thực hiện bằng cách hút.Ở vùng Bana, người thầy cúng lấy cái đau ra, làm lành một vết thương bằng cách 107cho nó vào trong một cái ống và vứt ra xa. Bệnh kiết lỵ được bà thầy cúng chữabằng cách nhổ con vi trùng ra khỏi người bệnh. Con vi trùng ấy gọi là bödruh. Ởvùng Xơđăng, người thầy cúng thậm chí chữa bệnh từ xa bằng cách chỉ dùng đếnmột chiếc áo của người bệnh coi như người làm chứng.Ðôi khi người Tây Nguyên chữa bệnh bằng cách trừng phạt. Như để chữa viêm dado lá cây bangchai gây ra, họ có thể không cần dùng đến thuốc römit, mà đi phạtcái cây đã gây ra bệnh. Họ tìm đến chỗ cái cây có tội ấy, ho àn toàn trần truồng, vàném đất vào thân cây. Ðể không phải nhìn thấ ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
văn hóa địa lý các dân tộc miền núi miền đất huyền ảo lịch sử văn hóa các dân tộc Nam Đông dươngGợi ý tài liệu liên quan:
-
4 trang 200 0 0
-
Báo cáo Sự thành lập Công ty Đông Ấn Anh và những nỗ lực thâm nhập phương Đông trong thế kỷ XVII.
9 trang 103 0 0 -
4 trang 70 0 0
-
11 trang 47 0 0
-
1 trang 45 0 0
-
26 trang 40 0 0
-
Hoàn cảnh ra đời và ảnh hưởng của phong trào văn hóa Phục Hưng
2 trang 33 0 0 -
8 trang 31 0 0
-
11 trang 26 0 0
-
Trò chuyện Triết học (Tập 4): Phần 1
106 trang 23 0 0