Danh mục

MỔ BẮC CẦU ÐỘNG MẠCH VÀNH TIM LẦN 2 HOẶC 3

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 165.44 KB      Lượt xem: 6      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 3,000 VND Tải xuống file đầy đủ (7 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Từ 1 - 1991 đến 12 - 1994 tại Khoa Phẫu thuật Tim - Mạch Centre Me dical - Chirurgical Foch đã mổ cầu nối động mạch vành tim lần 2 hoặc 3 cho 74 trường hợp. Chỉ định mổ: đau ngực không ổn định: 34 trường hợp (45,96%), đau ngực ổn định: 26 trường hợp (35,14%), không triệu chứng đau ngực: 14 trường hợp (18,9%), hình ảnh quay phim động mạch vành tim: tắc hoặc chít hẹp gần hoàn toàn cầu nối: 25 trường hợp (33,78%), hẹp cầu nối 50% đường kính: 45 trường hợp (60,81%) và...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
MỔ BẮC CẦU ÐỘNG MẠCH VÀNH TIM LẦN 2 HOẶC 3 MỔ BẮC CẦU ÐỘNG MẠCH VÀNH TIM LẦN 2 HOẶC 3TÓM TẮTTừ 1 - 1991 đến 12 - 1994 tại Khoa Phẫu thuật Tim - Mạch CentreMe dical - Chirurgical Foch đã mổ cầu nối động mạch vành tim lần 2 hoặc3 cho 74 trường hợp. Chỉ định mổ: đau ngực không ổn định: 34 trường hợp(45,96%), đau ngực ổn định: 26 trường hợp (35,14%), không triệu chứngđau ngực: 14 trường hợp (18,9%), hình ảnh quay phim động mạch vành tim:tắc hoặc chít hẹp gần hoàn toàn cầu nối: 25 trường hợp (33,78%), hẹp cầunối > 50% đường kính: 45 trường hợp (60,81%) và tổn thương mới trên hệthống động mạch vành tim: hẹp động mạch vành trái chính: 2 trường hợp(2,70%), hẹp hoặc tắc ở 1 tới 3 nhánh động mạch vành: 64 trường hợp(86,49%). Các phương pháp phục hồi lưu thông máu: triệt để: 36 trường hợp(49,32%), không triệt để: 37 trường hợp (50,68%). Diễn tiến sau mổ: đaungực: 6 trường hợp (8,1%), nhồi máu cơ tim: 13 trường hợp (15,57%), blocdẫn truyền thần kinh tim: 5 trường hợp (6,76%). Tử vong: 14 trường hợp(18,92%) với nguyên nhân chính là nhồi máu cơ tim: 9 trường hợp(64,29%).SUMMARYINDICATIONS AND TECHNIQUES OF REOPERATION INCORONARY ARTERY BYPASS FOR THE SECOND OR THIRD TIMETran Quyet Tien * Y hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 3 - No 3 - 1999: 106-114From 1 - 1991 to 12 - 1994 in the Department of Cardiovascular surgery ofCentre Médico - Chirurgical Foch 74 cases of obstructive coronary arterywere reoperated for the second or third time. The operative indications were:instable angina: 34 cases (45.96%), stable angina 26 cases (35.14%),asymptomatic: 14 cases (18.9%) and the coronarography lesions: occlusionor severe stenosis of graft: 25 cases (33.78%), stenosis more than 50% ofgraft diameter: 45 cases (60.81%) and the new lesions of the coronary arterysystem were: stenosis of left coronary artery: 2 cases (2.70%), occlusion orstenosis of one to three branches of coronary artery: 64 cases (86.49%). Therevascularization methods were: complete 36 cases (49.32%), incomplete:37 cases (50.68%). Postoperative follow - up: angina 6 cases (8.1%), cardiacinferctus 13 cases (15.57%), block of cardiac nerf conduction 5 cases(6.76%). Mortality: 14 cases (18.92%) with main cause: cardiac infarctus inpostoperative period: 9 cases (64.29%).ÐẶT VẤN ÐỀNăm 1967 lần đầu tiên trên thế giới Effler DB và Favaloro RG thực hiệnphẫu thuật bắc cầu động mạch vành tim để điều trị một trường hợp thiếumáu cơ tim mắc phải(9). Từ đó đến nay, phương pháp này đã trở thành côngviệc thường xuyên của ngành Phẫu thuật tim mạch. Trên thế giới số bệnhnhân được phẫu thuật bắc cầu động mạch vành tim ngày càng nhiều với kỹthuật ngày càng tiến bộ đặc biệt là ở Tây Âu và Bắc Mỹ(17).Nhưng không may là phương pháp điều trị này không có tác dụng suốt đờimà chỉ trong một thơì gian nhất định. Theo Kirklin(17) với các bệnh nhân cómang cầu nối bằng tĩnh mạch (ghép tự thân) bị hẹp miệng nối gần 20 %trong năm đầu sau mổ và 25% bị tắc sau 5 năm, miệng nối xa 50% bị hẹp lạitrong năm đầu tiên nhưng hầu hết không thấy có tiến triển sau 5 năm(17).Theo các tổng kết cho thấy thời gian không có triệu chứng trung b ìnhkhoảng từ 4 đến 7 năm đối với cầu nối bằng tĩnh mạch hiển trong, 8 đến 10năm đối với cầu nối bằng động mạch vú trong(3, 28) . Các triệu chứng lâmsàng tái phát tỉ lệ với tiến trình thoái hóa của cầu nối, trên quay phim độngmạch vành tim có thể thấy các hình ảnh bệnh lý: hẹp, tắc nghẽn, tách váchcủa cầu nối hay động mạch vành tim.Ở Việt Nam bệnh thiếu máu cơ tim mă c phải ngày càng tăng và phươngpháp mổ làm cầu nối động mạch vành tim đang được triển khai. Hiện naytrên thế giới chỉ định và kỹ thuật mổ những trường hợp thiếu máu cơ timmắc phải nguyên phát đã trở thành kinh điển, vấn đề tiếp theo cần phảinghiên cứu là những trường hợp thiếu máu tái phát sau làm cầu nối. Trongthời gian thực tập tại Centre Medico - Chirurgical Foch với Giáo sư DanielGuilmet và cộng sự, được sự hướng dẫn của Giáo sư Guilmet, tác giả đã hồicứu 74 trường hợp mổ lại lần 2 hoặc 3 nhằm rút ra những kinh nghiệm chẩnđoán, xử trí ngoại khoa bệnh lý này.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨUÐịa điểm và Thời gian nghiên cứuCông trình được thực hiện tại Khoa Phẫu thuật Tim - Mạch thuộc CentreMedico - Chirurgical Foch. Hồ sơ được hồi cứu từ 1- 1 - 1991 đến 31 - 12 -1994 bao gồm: bệnh án và toàn bộ hồ sơ, các biên bản hội chẩn trong bệnhviện cũng như giữa các cơ sở điều trị.các khám nghiệm cận lâm sàng liênquan đến chẩn đoán và điều trị như siêu âm tim, thử nghiệm gắng sức, hoặcquay phim hệ thống động mạch vành tim...Mục tiêu nghiên cứu+ Ðánh giá mức độ thương tổn trên cầu nối, động mạch vành tim trước khitiến hành làm cầu nối mới. Các chỉ định và phương pháp mổ thiếu máu cơtim tái phát.+ Ðánh giá kết quả sớm điều trị ngoại khoa thiếu máu ...

Tài liệu được xem nhiều: