Mô hình mô phỏng ứng dụng trong quản lý dự án xây dựng
Số trang: 8
Loại file: doc
Dung lượng: 278.00 KB
Lượt xem: 15
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Việc sử dụng mô hình mô phỏng để nắm bắt các động thái trong quá trình thực hiện dự án là ý
tưởng của những người nghiên cứu về tổ chức sản xuất xây dựng. Mô hình toán học dưới
dạng các đồ giải gọi là tích ( stock) và dòng ( flow ) sẽ xâm nhập như thế nào vào quản lý dự
án? Có thể xây dựng được những mô hình mô phỏng để tìm ra phương thức hữu hiệu cho
quản lý dự án không? Dưới đây, các tác giả trình bày những ý tưởng của mình, mong được
tham khảo rộng...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Mô hình mô phỏng ứng dụng trong quản lý dự án xây dựng MÔ HÌNH MÔ PHỎNG ỨNG DỤNG TRONG QUẢN LÝ DỰ ÁN XÂY DỰNG PGS. Lê Kiều Chủ nhiệm Bộ môn Công nghệ&Tỉ chc xây dựng, Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội Th.S Nguyễn Duy Long Nghiên cứu sinh Trường Đại học Thành phố Hương Cảng, Hồng Kông Th.S Lưu Trường Văn Giảng viên Khoa Kỹ Thuật Xây Dựng, Trường Đại Học Bách Khoa TP.HCM 1. KHÁI NIỆM Việc sử dụng mô hình mô phỏng để nắm bắt các động thái trong quá trình thực hiện dự án là ý tưởng của những người nghiên cứu về tổ chức sản xuất xây dựng. Mô hình toán học dưới dạng các đồ giải gọi là tích ( stock) và dòng ( flow ) sẽ xâm nhập như thế nào vào quản lý dự án? Có thể xây dựng được những mô hình mô phỏng để tìm ra phương thức hữu hiệu cho quản lý dự án không? Dưới đây, các tác giả trình bày những ý tưởng của mình, mong được tham khảo rộng rãi sự tham góp của độc giả. Các dự án xây dựng (DAXD) thường rất phức tạp và nhiều rủi ro. Một DAXD là một hệ thống động [1] : (i) rất phức tạp, nhiều yếu tố phụ thuộc lẫn nhau, (ii) không ngừng biến đổi, (iii) nhiều quá trình phản hồi, (iv) nhiều quan hệ phi tuyến, và (v) gồm nhiều dữ liệu “cứng” và “mềm” [15]. Vì thế, việc quản lý dự án (QLDA) xây dựng chứa đựng nhiều thử thách. Thêm vào đó, các công cụ QLDA truyền thống có nhiều thiếu sót, nhất là trong môi trường ra quyết định mang tính chiến lược. Mục đích chính của bài báo này là trình bày một mô hình mô phỏng động đóng vai trò như một công cụ đầy hứa hẹn cho các nhà thầu “thí nghiệm” những tác động và “tiên liệu” những kết quả của các chiến lược và chính sách của họ trước khi các chính sách này có hiệu lực. Mô hình này được đem ứng dụng vào một dự án cụ thể đang thi công để nắm bắt những động thái của nó. 2. NHỮNG ỨNG DỤNG CỦA “ĐỘNG THÁI HỆ THỐNG” TRONG QLDA “Động thái hệ thống” (ĐTHT - System Dynamics) đã được Jay Forester phát minh vào cuối thập kỷ 50 của thế kỷ XX. Sterman (1992) [15] đã khẳng định rằng ĐTHT đã chứng tỏ là công cụ phân tích hiệu quả trong vô vàn tình huống – cả trong học thuật và ứng dụng – và ngày nay nó được sử dụng bởi nhiều công ty bao gồm cả các công ty trong “Top 500” của tạp chí Fortune. Trong QLDA nói chung, sự hạn chế của các công cụ quản lý truyền thống đã khuyến khích nhiều học giả và chuyên gia tìm kiếm những công cụ bổ sung. Từ đó, ĐTHT được xem là một phương án đầy hứa hẹn. ĐTHT là một “quan điểm” và một tập hợp các công cụ có thể giúp chúng ta hiểu những cấu trúc và động thái của các hệ thống phức tạp [16]. Mô hình ĐTHT có thể kết hợp các yếu tố khác nhau từ kỹ thuật, tổ chức đến con người và môi trường. Rodrigues và Bowers (1996) [14] đưa ra các nhân tố nhằm khuyến khích những ứng dụng của ĐTHT vào QLDA là: (i) quan tâm đến tổng thể DA hơn là tập hợp các yếu tố riêng biệt, (ii) nhu cầu xem xét những khía cạnh phi tuyến mà tiêu biểu là các vòng (loop) phản hồi “cân bằng” (balancing) và “củng cố” (reinforcing), (iii) nhu cầu có một mô hình dự án linh hoạt như một “phòng thí nghiệm” cho các lựa chọn/quyết định quản lý, và (iv) thất bại của các công cụ phân tích truyền thống trong việc giải quyết các vấn đề quản lý và mong muốn thử nghiệm những điều mới mẻ hơn. 1 Kể từ khi nó được phát minh, ĐTHT đã và đang ứng dụng trong việc quản lý các dự án phức tạp. Hầu hết những ứng dụng này bị giới hạn trong các DA nghiên cứu phát triển (R&D) [13]và phát triển phần mềm[2], Cooper (1980) đã xây dựng và ứng dụng một mô hình mô phỏng để giải quyết tranh chấp giữa nhà thầu và chủ đầu tư (Hải Quân Hoa Kỳ) trị giá 500 triệu USD. Trong quản lý xây dựng, mô hình hóa ĐTHT của các dự án đã được nghiên cứu đáng kể. Chang (1990) [3] đã phát triển một mô hình DAXD dựa trên mô hình dự án R&D của Richardson và Pugh (1981) [12]. Mô hình ĐTHT cũng được áp dụng trong quản lý thiết kế [11], sự cản trở và làm chậm trể công trình [8], dự án BOT [4] và quản lý dự phòng [7]. Ở chừng mực nào đó, những nghiên cứu này đã giải quyết nhiều động thái của các dự án phức tạp. Tuy nhiên, những đặc tính động khác của dự án cần được nghiên cứu đầy đủ hơn. 3. PHƯƠNG PHÁP LUẬN Phương pháp luận ĐTHT được áp dụng trong nghiên cứu này. Mô hình hóa ĐTHT là một bộ phận của quá trình nhận thức và là một tiến trình liên tục trong việc hình thành giả thiết, kiểm tra, và hiệu chỉnh cả mô hình “nhận thức” (mental model) và mô hình toán [16]. Quá trình mô hình hóa thường có năm bước. Nghiên cứu này chọn quá trình mô hình hóa được đề nghị bởi Sterman (2000) [16] gồm những công tác sau: (i) xác định vấn đề cần giải quyết, (ii) hình thành giả thiết động hay lý thuyết về nguyên nhân của vấn đề, (iii) xây dựng mô hình mô phỏng để kiểm tra giả thiết, (iv) thử nghiệm mô hình cho đến khi mô hình phù hợp với mục đích đặt ra, và (v) thiết kế và thẩm định các chính sách để cải tiến khả năng thực hiện. Phần ® mềm Vensim PLE được chọn cho các công tác mô phỏng như xây dựng các biểu đồ phản hồi, đồ giải “tích” và “dòng”, mô hình chi tiết, thử nghiệm mô hình, quá trình mô phỏng, và phân tích chính sách. Chi tiết của phương pháp luận ĐTHT có thể tham khảo ở nhiều công trình khác [ 12] và [16]. Bài báo này chỉ trình bày vắn tắt việc xây dựng mô hình (model formulation), thử nghiệm hiệu chỉnh (validation) và ứng dụng mô hình (calibration). 4. CÁC CƠ CẤU PHẢN HỒI CHÍNH (KEY FEEDBACK STRUCTURES) Một vài nghiên cứu trước đây đã kết hợp những yếu tố động vào trong các mô hình cho từng dự án cụ thể. Ví dụ, Richardson and Pugh (1981) [12] cho dự án R&D, Cooper và Mullen (1993) [5] cho dự án phát triển phần mềm, Ford (1995) [6] cho dự án phát triển sản phẩm. Từ những công trình nghiên cứu sẵn có, Ford (1995) [6] đã kết hợp thành sáu cơ cấu phản hồi chính. Những cơ cấu này không phản ánh đầy đủ những đặc tính động của DAXD vì những tài nguyên khác ngoài nhân lực, an toàn lao động,… chưa được xem xét. Dựa trên những mô hình có sẵn và thực tiễn của ngành xây d ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Mô hình mô phỏng ứng dụng trong quản lý dự án xây dựng MÔ HÌNH MÔ PHỎNG ỨNG DỤNG TRONG QUẢN LÝ DỰ ÁN XÂY DỰNG PGS. Lê Kiều Chủ nhiệm Bộ môn Công nghệ&Tỉ chc xây dựng, Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội Th.S Nguyễn Duy Long Nghiên cứu sinh Trường Đại học Thành phố Hương Cảng, Hồng Kông Th.S Lưu Trường Văn Giảng viên Khoa Kỹ Thuật Xây Dựng, Trường Đại Học Bách Khoa TP.HCM 1. KHÁI NIỆM Việc sử dụng mô hình mô phỏng để nắm bắt các động thái trong quá trình thực hiện dự án là ý tưởng của những người nghiên cứu về tổ chức sản xuất xây dựng. Mô hình toán học dưới dạng các đồ giải gọi là tích ( stock) và dòng ( flow ) sẽ xâm nhập như thế nào vào quản lý dự án? Có thể xây dựng được những mô hình mô phỏng để tìm ra phương thức hữu hiệu cho quản lý dự án không? Dưới đây, các tác giả trình bày những ý tưởng của mình, mong được tham khảo rộng rãi sự tham góp của độc giả. Các dự án xây dựng (DAXD) thường rất phức tạp và nhiều rủi ro. Một DAXD là một hệ thống động [1] : (i) rất phức tạp, nhiều yếu tố phụ thuộc lẫn nhau, (ii) không ngừng biến đổi, (iii) nhiều quá trình phản hồi, (iv) nhiều quan hệ phi tuyến, và (v) gồm nhiều dữ liệu “cứng” và “mềm” [15]. Vì thế, việc quản lý dự án (QLDA) xây dựng chứa đựng nhiều thử thách. Thêm vào đó, các công cụ QLDA truyền thống có nhiều thiếu sót, nhất là trong môi trường ra quyết định mang tính chiến lược. Mục đích chính của bài báo này là trình bày một mô hình mô phỏng động đóng vai trò như một công cụ đầy hứa hẹn cho các nhà thầu “thí nghiệm” những tác động và “tiên liệu” những kết quả của các chiến lược và chính sách của họ trước khi các chính sách này có hiệu lực. Mô hình này được đem ứng dụng vào một dự án cụ thể đang thi công để nắm bắt những động thái của nó. 2. NHỮNG ỨNG DỤNG CỦA “ĐỘNG THÁI HỆ THỐNG” TRONG QLDA “Động thái hệ thống” (ĐTHT - System Dynamics) đã được Jay Forester phát minh vào cuối thập kỷ 50 của thế kỷ XX. Sterman (1992) [15] đã khẳng định rằng ĐTHT đã chứng tỏ là công cụ phân tích hiệu quả trong vô vàn tình huống – cả trong học thuật và ứng dụng – và ngày nay nó được sử dụng bởi nhiều công ty bao gồm cả các công ty trong “Top 500” của tạp chí Fortune. Trong QLDA nói chung, sự hạn chế của các công cụ quản lý truyền thống đã khuyến khích nhiều học giả và chuyên gia tìm kiếm những công cụ bổ sung. Từ đó, ĐTHT được xem là một phương án đầy hứa hẹn. ĐTHT là một “quan điểm” và một tập hợp các công cụ có thể giúp chúng ta hiểu những cấu trúc và động thái của các hệ thống phức tạp [16]. Mô hình ĐTHT có thể kết hợp các yếu tố khác nhau từ kỹ thuật, tổ chức đến con người và môi trường. Rodrigues và Bowers (1996) [14] đưa ra các nhân tố nhằm khuyến khích những ứng dụng của ĐTHT vào QLDA là: (i) quan tâm đến tổng thể DA hơn là tập hợp các yếu tố riêng biệt, (ii) nhu cầu xem xét những khía cạnh phi tuyến mà tiêu biểu là các vòng (loop) phản hồi “cân bằng” (balancing) và “củng cố” (reinforcing), (iii) nhu cầu có một mô hình dự án linh hoạt như một “phòng thí nghiệm” cho các lựa chọn/quyết định quản lý, và (iv) thất bại của các công cụ phân tích truyền thống trong việc giải quyết các vấn đề quản lý và mong muốn thử nghiệm những điều mới mẻ hơn. 1 Kể từ khi nó được phát minh, ĐTHT đã và đang ứng dụng trong việc quản lý các dự án phức tạp. Hầu hết những ứng dụng này bị giới hạn trong các DA nghiên cứu phát triển (R&D) [13]và phát triển phần mềm[2], Cooper (1980) đã xây dựng và ứng dụng một mô hình mô phỏng để giải quyết tranh chấp giữa nhà thầu và chủ đầu tư (Hải Quân Hoa Kỳ) trị giá 500 triệu USD. Trong quản lý xây dựng, mô hình hóa ĐTHT của các dự án đã được nghiên cứu đáng kể. Chang (1990) [3] đã phát triển một mô hình DAXD dựa trên mô hình dự án R&D của Richardson và Pugh (1981) [12]. Mô hình ĐTHT cũng được áp dụng trong quản lý thiết kế [11], sự cản trở và làm chậm trể công trình [8], dự án BOT [4] và quản lý dự phòng [7]. Ở chừng mực nào đó, những nghiên cứu này đã giải quyết nhiều động thái của các dự án phức tạp. Tuy nhiên, những đặc tính động khác của dự án cần được nghiên cứu đầy đủ hơn. 3. PHƯƠNG PHÁP LUẬN Phương pháp luận ĐTHT được áp dụng trong nghiên cứu này. Mô hình hóa ĐTHT là một bộ phận của quá trình nhận thức và là một tiến trình liên tục trong việc hình thành giả thiết, kiểm tra, và hiệu chỉnh cả mô hình “nhận thức” (mental model) và mô hình toán [16]. Quá trình mô hình hóa thường có năm bước. Nghiên cứu này chọn quá trình mô hình hóa được đề nghị bởi Sterman (2000) [16] gồm những công tác sau: (i) xác định vấn đề cần giải quyết, (ii) hình thành giả thiết động hay lý thuyết về nguyên nhân của vấn đề, (iii) xây dựng mô hình mô phỏng để kiểm tra giả thiết, (iv) thử nghiệm mô hình cho đến khi mô hình phù hợp với mục đích đặt ra, và (v) thiết kế và thẩm định các chính sách để cải tiến khả năng thực hiện. Phần ® mềm Vensim PLE được chọn cho các công tác mô phỏng như xây dựng các biểu đồ phản hồi, đồ giải “tích” và “dòng”, mô hình chi tiết, thử nghiệm mô hình, quá trình mô phỏng, và phân tích chính sách. Chi tiết của phương pháp luận ĐTHT có thể tham khảo ở nhiều công trình khác [ 12] và [16]. Bài báo này chỉ trình bày vắn tắt việc xây dựng mô hình (model formulation), thử nghiệm hiệu chỉnh (validation) và ứng dụng mô hình (calibration). 4. CÁC CƠ CẤU PHẢN HỒI CHÍNH (KEY FEEDBACK STRUCTURES) Một vài nghiên cứu trước đây đã kết hợp những yếu tố động vào trong các mô hình cho từng dự án cụ thể. Ví dụ, Richardson and Pugh (1981) [12] cho dự án R&D, Cooper và Mullen (1993) [5] cho dự án phát triển phần mềm, Ford (1995) [6] cho dự án phát triển sản phẩm. Từ những công trình nghiên cứu sẵn có, Ford (1995) [6] đã kết hợp thành sáu cơ cấu phản hồi chính. Những cơ cấu này không phản ánh đầy đủ những đặc tính động của DAXD vì những tài nguyên khác ngoài nhân lực, an toàn lao động,… chưa được xem xét. Dựa trên những mô hình có sẵn và thực tiễn của ngành xây d ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
mô hình mô phỏng ứng dụng quản lý dự án dự án xây dựng tổ chức xây dựng kỹ thuật xây dựngGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo trình Quản lý dự án phần mềm: Phần 2 - Phạm Ngọc Hùng
216 trang 401 0 0 -
Bài tập thực hành môn Phân tích thiết kế hệ thống thông tin
6 trang 285 0 0 -
Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sự chậm thanh toán cho nhà thầu phụ trong các dự án nhà cao tầng
10 trang 260 0 0 -
Thuyết minh dự án đầu tư: Sân Golf Phúc Tiến
66 trang 223 3 0 -
35 trang 219 0 0
-
136 trang 191 0 0
-
Ứng dụng mô hình 3D (Revit) vào thiết kế thi công hệ thống MEP thực tế
10 trang 187 0 0 -
Cẩm nang Quản lý hiệu quả: Quản lý dự án
72 trang 181 0 0 -
Thiết kế giảm chấn kết cấu bằng hệ bể chứa đa tần có đối chiếu thí nghiệm trên bàn lắc
6 trang 180 0 0 -
Giáo trình Quản lý dự án đầu tư - TS. Từ Quang Phương
303 trang 177 1 0