Trong cuộc thảo luận bàn tròn gần đây trên talawas về những vấn đề của mỹ thuật Việt Nam, nhiều người đã lưu ý tới vai trò của phê bình và các bài viết về mỹ thuật trong khung cảnh phát triển của mỹ thuật đương đại. Tất nhiên, nền phê bình mỹ thuật của một quốc gia gắn bó chặt chẽ với lịch sử và lý thuyết mỹ thuật, và rộng hơn là với những nghiên cứu về lịch sử văn hóa của quốc gia đó. Xem qua các bài viết về văn hóa Việt Nam, tôi nhận thấy...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Một cách nhìn về phê bình mỹ thuật Việt Nam
Một cách nhìn về phê bình mỹ
thuật Việt Nam
Natalia Kraevskaia
Trong cuộc thảo luận bàn tròn gần đây trên talawas về những vấn đề
của mỹ thuật Việt Nam, nhiều người đã lưu ý tới vai trò của phê bình
và các bài viết về mỹ thuật trong khung cảnh phát triển của mỹ thuật
đương đại. Tất nhiên, nền phê bình mỹ thuật của một quốc gia gắn bó
chặt chẽ với lịch sử và lý thuyết mỹ thuật, và rộng hơn là với những
nghiên cứu về lịch sử văn hóa của quốc gia đó. Xem qua các bài viết về
văn hóa Việt Nam, tôi nhận thấy về cơ bản văn hóa bị coi như một kho
chứa thông tin, chứ không phải như là một cơ cấu đầy linh hoạt và
phức tạp của quá trình nhận thức. Nếu chỉ tập trung vào một thời kỳ
nhất định, hay vào việc mô tả văn hoá theo niên đại một cách khô khan,
ta sẽ bỏ qua mất tính động của lịch sử, sẽ không phân tích được những
thay đổi văn hóa trong thời kỳ xã hội biến động như ở Việt Nam hiện
nay, hay sự thay thế các giai tầng văn hóa lúc giao thời. Trong bối cảnh
này, mối quan ngại của Như Huy về những nhà phê bình mỹ thuật nước
ngoài (mỹ thuật Việt Nam chỉ tồn tại từ lúc họ bắt đầu theo dõi nó -
bàn tròn talawas, 04.01.03) là dễ hiểu. Nhưng lời phê bình này cũng
hoàn toàn có thể dành cho các nhà phê bình mỹ thuật Việt Nam, cũng
như nhiều người viết về văn hóa khác, bởi họ coi văn hoá như một cấu
trúc, chứ không phải là một tiến trình, và thường bỏ qua những phân
tích về mỹ thuật trong khung cảnh của những quá trình văn hoá khác.
Để có được thông tin một cách hệ thống về mỹ thuật Việt Nam là một
việc rất khó khăn, thậm chí gần như không làm được. Người ta phải
xem vô số bài báo, sách và các bài điểm báo trong ca-ta-log. Thậm chí
cả cái thời kỳ phát triển ngắn ngủi của mỹ thuật Việt Nam ở thế kỷ 20,
thời kỳ mà nó trở nên phi-vô danh, phi-tôn giáo và phi-dân gian, cũng
chưa được khảo sát và miêu tả. Chúng ta có thể nói rằng lịch sử mỹ
thuật Việt Nam vẫn chưa được viết ra. Trong những tài liệu tiếng Việt
mà tôi đọc (với tiếng Việt hạn chế của mình, có thể tôi có phần không
đúng), mỹ thuật được coi như là một hình thức để phản ánh, chứ không
là một hình thức của quá trình nhận thức, không là một hình thức của tư
duy, và cuối cùng không là một phương tiện để giao tiếp. Do đó tôi
đồng ý với kết luận của Nguyên Hưng rằng cần hơn cho Việt Nam là
phê bình lý thuyết, phê bình học thuật, phê bình văn hóa (bàn tròn
talawas, 24.11.02).
Hiện nay các thể loại viết khác nhau (sách, bài trong ca-ta-log, tạp chí
mỹ thuật hoặc báo chí) đều có chung cách tiếp cận tĩnh với mỹ thuật
đương đại Việt Nam. Đã tới lúc chúng ta phải thay đổi phương thức
viết sách, vứt bỏ những cuốn sách hầu như không có một chữ nào trừ
vài lời giới thiệu ngắn, nhưng lại có hàng trăm trang phiên bản tồi của
những tác phẩm hạng hai, và thay vào đó là những cuốn sách mang lại
cho người đọc những thông tin bổ ích liên quan đến đề tài. Có lẽ đến
nay chỉ có hai cuốn sách có thể đem lại một cái nhìn rộng hơn về phong
cảnh mỹ thuật đương đại Việt Nam: Các nghệ sĩ trẻ Việt Nam của
Phan Cẩm Thượng và Lương Xuân Đoàn [1], với một sự nỗ lực phân
tích xã hội học về bản chất của việc sáng tạo nghệ thuật, và Tân Mỹ
thuật Việt Nam trong thập niên 90 của Bùi Như Hương và Trần Hậu
Tuấn [2], phân loại mỹ thuật Việt Nam đương đại theo phong cách và
trào lưu.
Tôi không phản đối rằng các ca-ta-log cũng là chỗ cho các bài phê
bình, nhưng những tiểu luận trong các ca-ta-log Việt Nam hầu như luôn
được viết theo cùng một kiểu: tán tụng ngọt lịm đến phát ốm mà không
có sự phân tích sâu sắc nào liên quan đến tác phẩm của nghệ sĩ. Khó
mà tìm được những bài viết đầy nhiệt tình, đơn giản và có tính cá nhân
như bài của Le Corbusier về Gaudi [3], hoặc những bài giới thiệu nghệ
sĩ với một cách thức hoàn toàn khác, ví dụ như các bài viết của Carlos
Franqui về Jorge Camacho: đầy tính thơ, phản ánh qua những câu văn
bị cắt ngắn tất cả các khía cạnh, đặc tính và tâm lý quốc gia của người
nghệ sĩ, sự liên hệ của ông với chủ nghĩa siêu thực, bản chất và nguồn
gốc của các tác phẩm của ông, Cuba. Cuba được biết đến như là một
đất nước siêu thực. Lật đổ và tự do. Rum-ba chống lại bộ máy quan
liêu. Nhịp điệu da đen. Cái chết khiêu vũ. Hành hạ bạo dâm và khổ
dâm. Cái hầm giam cầm. Sự tự do tỏa sáng. Vẽ. Ký ức bị giết bỗng
xuất hiện. Điều vô thức có thể thấy được. Sự siêu thực hiện hình thành
tranh. Vẽ là hành trình. Vẽ là vừa đi vừa khiêu vũ. Để nhận ra ta. Để tự
khám phá ta. Để tồn tại. Để còn lại... [4]. Trong những ca-ta-log của
Việt Nam hiếm khi ta tìm được một bài nào sâu sắc triết lý hoặc cảm
động tự nhiên, mà chỉ hết sức hoa hòe và thống thiết. Có lẽ Bùi Quang
Ngọc đã đúng khi anh nói về sự thiếu vắng nhạy cảm nghệ thuật trong
các bài viết về mỹ thuật đương đại ở Việt Nam (bàn tròn talawas,
17.12.02).
Phê bình mỹ thuật trong các tạp chí chuyên môn thì phần lớn là mang
tính mô tả, chứ không đặt vấn đề, không có tính khái niệm và không có
sự trình bày tha thiết. Nhưng mặt khác, ta có thể đặt câu hỏi là một bài
điểm báo của một cuộc triển lãm có thể có tính phân tích đến mức nào
khi mà triển lãm có tựa đề như: Năm Ngựa/Chuột/Lợn v.v…, Hoa,
Triển Lãm Xuân, Triển Lãm của Phụ Nữ hoặc còn khó tin hơn như
Ý Niệm Đương Đại, Các nghệ sĩ từ 25 đến 35, Các nghệ sĩ từ 35
đến 45, Các nghệ sĩ từ 45 đến 55? (Ba cuộc triển lãm cuối cùng
được tổ chức tại Trung tâm Nghệ thuật Đương đại Hà Nội trong 2 năm
qua và ta có thể dễ dàng đoán được tựa đề của cuộc triển lãm tiếp theo).
Hãy so sánh với tựa đề của một số triển lãm ở các nước Á châu khác:
Cái Tôi thứ hai, Những bản ngã tưởng tượng, Những dấu mốc,
Không là một búp bê, Tiến thoái lưỡng nan, Câu chuyện về thằng
Tôi. Các nghệ sĩ có cung cấp cho các nhà phê bình đủ tài liệu thú vị để
họ đào sâu thêm không? Có những vấn đề sâu sắc trong mỹ thuật
đương đại Việt Nam để khám phá và thảo luận hay không? Đấy là mặt
khác của vấn đề.
Ta có thể thấy rằng nói chung phê bình mỹ thuật ở Việt Nam không
phê bình gì cả. Trong những trường hợp hiếm hoi mà ...