Một đời người cần bổ sung bao nhiêu i-ốt là đủ
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 193.48 KB
Lượt xem: 7
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
I-ốt là nguyên tố vô cơ vi lượng, mặc dù chỉ cần một lượng rất nhỏ nhưng không thể thiếu đối với cơ thể con người. Tuy nhiên, con người không tự tổng hợp được i-ốt mà phải bổ sung từ bên ngoài... Dù bổ sung i-ốt qua muối ăn hằng ngày là rất đơn giản và hiệu quả nhưng khi thực hiện vẫn gặp nhiều bất cập. TS. Lê Phong - Trưởng phòng chỉ đạo tuyến Bệnh viện Nội tiết Trung ương chia sẻ với độc giả báo SK&ĐS về vấn đề này. - Thưa TS, năm 2005,...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Một đời người cần bổ sung bao nhiêu i-ốt là đủ Một đời người cần bổ sung bao nhiêu i-ốt là đủ?I-ốt là nguyên tố vô cơ vi lượng, mặc dù chỉ cần một lượng rất nhỏnhưng không thể thiếu đối với cơ thể con người. Tuy nhiên, con ngườikhông tự tổng hợp được i-ốt mà phải bổ sung từ bên ngoài... Dù bổ sungi-ốt qua muối ăn hằng ngày là rất đơn giản và hiệu quả nhưng khi thựchiện vẫn gặp nhiều bất cập. TS. Lê Phong - Trưởng phòng chỉ đạo tuyếnBệnh viện Nội tiết Trung ương chia sẻ với độc giả báo SK&ĐS về vấn đềnày.- Thưa TS, năm 2005, Dự án (DA) phòng chống bướu cổ đã công bố hoànthành được mục tiêu thanh toán các rối loạn do thiếu hụt i-ốt (CRLTI) trênphạm vi toàn quốc, tại sao thời gian gần đây, các kết quả điều tra dịch tễ lạicho thấy nguy cơ các bệnh do rối loạn thiếu hụt i-ốt có xu hướng quay trởlại?- Có thể nói việc thanh toán CRLTI trong giai đoạn 1995-2005 là một thànhcông rực rỡ của sự phối hợp đồng bộ giữa ngành y tế, các bộ/ngành, các cấpchính quyền và sự ủng hộ nhiệt tình của người dân. Tuy nhiên, khi chươngtrình phòng chống RLTI chuyển đổi từ chương trình mục tiêu quốc gia thànhchương trình hoạt động thường xuyên thì tình trạng thiếu i-ốt đang có nguycơ tái diễn trở lại, nghiên cứu của chúng tôi tại một số điểm cho thấy việcthiếu i-ốt đang tái diễn ở đồng bằng và các thành phố lớn, đó là do:- Khi không còn DA mục tiêu, Ban chỉ đạo tại Trung ương (TW) giải thể, vìthế không còn sự phối hợp liên ngành trong việc i-ốt hóa muối cung cấp chonhân dân (đây lại là quy định bắt buộc của Ủy ban phòng chống các rối loạnthiếu hụt i-ốt quốc tế đối với bất kỳ quốc gia nào).- Kinh phí bị cắt giảm nghiêm trọng, mỗi năm Bộ Y tế cấp cho 6 tỷ đồng,trong đó chủ yếu dùng để mua hóa chất trộn muối, hóa chất xét nghiệm muốivà nước tiểu khoảng 5,7-5,8 tỷ, nhưng cũng chỉ đáp ứng được khoảng 2/3nhu cầu của các đơn vị sản xuất. Kinh phí chi cho hoạt động chuyên môn tạiTW mỗi năm chỉ 200-300 triệu đồng. Không còn kinh phí Trung ương cấpcho các địa phương. Khám phát hiện bướu cổ.- Không có kinh phí, các hoạt động thường quy tại Trung ương như công tácchỉ đạo tuyến, các hoạt động kiểm tra, giám sát hoạt động chuyên môn ởtuyến dưới, hoạt động sản xuất muối trên toàn quốc không thực hiện được.- Cán bộ làm công tác phòng chống bướu cổ tại Trung ương chuyển sanglàm công tác khác, do đó không thực hiện được nhiệm vụ chỉ đạo, kiểm tra,giám sát nên các hoạt động bị thả nổi. Hiện tại Trung ương chỉ còn vài cánbộ hoạt động kiêm nhiệm làm công tác phòng chống bướu cổ.- Nghị định 163/2005/NĐ-CP ra đời thay thế cho Nghị định 19/1999/NĐ -CP, trong đó điều quan trọng và then chốt nhất liên quan đến i-ốt muối hóatoàn dân theo các quy chuẩn quốc tế - rằng muối dùng cho người ăn phải làmuối i-ốt lại bị loại bỏ.- Từ năm 2006, kinh phí chi cho hoạt động phòng chống bướu cổ (PCBC) doUBND các tỉnh, thành phố cung cấp cho các hoạt động thường quy tại địaphương. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khách quan lẫn chủ quan, dẫn đến nhiềuđịa phương không bố trí kinh phí hoặc chỉ bố trí một lượng kinh phí quá ítcho hoạt động PCBC tại địa phương.- Không có kinh phí triển khai các hoạt động thường quy, hoạt động PCBCbị buông lỏng, cán bộ làm công tác PCBC chuyển sang làm công tác khácdẫn đến nguy cơ tan rã hệ thống.- Việc triển khai thành lập hệ thống trung tâm nội tiết (TTNT) theo quy địnhcủa Chính phủ diễn ra chậm, hiện cả nước mới có 11 TTNT, chủ yếu ở khuvực phía Bắc. Các tỉnh còn lại tồn tại ở nhiều mô hình khác nhau như Trungtâm y tế dự phòng, Trung tâm sốt rét - nội tiết; Trung tâm sốt rét - bướu cổ;Trung tâm dinh dưỡng... nên rất khó khăn trong chỉ đạo điều hành. Cần bổ sung i-ốt vào thực phẩm.- Xin ông cho biết, Nghị định 163/2005 của Chính phủ từ năm 2005 đến nayđã được thực hiện như thế nào?- Nghị định 163/2005/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày29/12/2005 quy định rất rõ chức năng của các bộ, ngành, chính quyền cáccấp về cung ứng và sản xuất muối i-ốt. Tuy nhiên, việc thực thi nghị địnhkhông được quan tâm hay nói cách khác, chưa đi vào cuộc sống. Bộ Tàichính - Bộ Y tế cũng có Thông tư liên bộ 147/YT-TC qui định mức chi chogiám sát chất lượng muối nhưng nhiều tỉnh không cấp kinh phí cho hoạtđộng này.- Như trên ông đã nói, việc bổ sung i-ốt vào muối ăn hằng ngày là biện pháphiệu quả trong việc dự phòng các rối loạn do thiếu hụt i-ốt? Tuy nhiên, cónhiều người lo lắng rằng i-ốt sẽ bị phân hủy ở nhiệt độ cao, do đó việc bổsung i-ốt vào muối ăn liệu có mang lại hiệu quả như mong muốn?- I-ốt là nguyên tố vô cơ vi lượng rất cần cho con người thường xuyên, liêntục mà con người không tự tổng hợp được. Trong khi đó, lượng i-ốt từ bênngoài cung cấp qua thức ăn ngày càng nghèo đi do hiện tượng i-ốt trong đấtbị mất dần bởi mưa, lũ cuốn trôi...Trên thế giới đã có nhiều phương pháp bổ sung thêm i-ốt cho con người nhưdùng dầu i-ốt, muối i-ốt (MI), các chế phẩm khác như nước uống, bánh ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Một đời người cần bổ sung bao nhiêu i-ốt là đủ Một đời người cần bổ sung bao nhiêu i-ốt là đủ?I-ốt là nguyên tố vô cơ vi lượng, mặc dù chỉ cần một lượng rất nhỏnhưng không thể thiếu đối với cơ thể con người. Tuy nhiên, con ngườikhông tự tổng hợp được i-ốt mà phải bổ sung từ bên ngoài... Dù bổ sungi-ốt qua muối ăn hằng ngày là rất đơn giản và hiệu quả nhưng khi thựchiện vẫn gặp nhiều bất cập. TS. Lê Phong - Trưởng phòng chỉ đạo tuyếnBệnh viện Nội tiết Trung ương chia sẻ với độc giả báo SK&ĐS về vấn đềnày.- Thưa TS, năm 2005, Dự án (DA) phòng chống bướu cổ đã công bố hoànthành được mục tiêu thanh toán các rối loạn do thiếu hụt i-ốt (CRLTI) trênphạm vi toàn quốc, tại sao thời gian gần đây, các kết quả điều tra dịch tễ lạicho thấy nguy cơ các bệnh do rối loạn thiếu hụt i-ốt có xu hướng quay trởlại?- Có thể nói việc thanh toán CRLTI trong giai đoạn 1995-2005 là một thànhcông rực rỡ của sự phối hợp đồng bộ giữa ngành y tế, các bộ/ngành, các cấpchính quyền và sự ủng hộ nhiệt tình của người dân. Tuy nhiên, khi chươngtrình phòng chống RLTI chuyển đổi từ chương trình mục tiêu quốc gia thànhchương trình hoạt động thường xuyên thì tình trạng thiếu i-ốt đang có nguycơ tái diễn trở lại, nghiên cứu của chúng tôi tại một số điểm cho thấy việcthiếu i-ốt đang tái diễn ở đồng bằng và các thành phố lớn, đó là do:- Khi không còn DA mục tiêu, Ban chỉ đạo tại Trung ương (TW) giải thể, vìthế không còn sự phối hợp liên ngành trong việc i-ốt hóa muối cung cấp chonhân dân (đây lại là quy định bắt buộc của Ủy ban phòng chống các rối loạnthiếu hụt i-ốt quốc tế đối với bất kỳ quốc gia nào).- Kinh phí bị cắt giảm nghiêm trọng, mỗi năm Bộ Y tế cấp cho 6 tỷ đồng,trong đó chủ yếu dùng để mua hóa chất trộn muối, hóa chất xét nghiệm muốivà nước tiểu khoảng 5,7-5,8 tỷ, nhưng cũng chỉ đáp ứng được khoảng 2/3nhu cầu của các đơn vị sản xuất. Kinh phí chi cho hoạt động chuyên môn tạiTW mỗi năm chỉ 200-300 triệu đồng. Không còn kinh phí Trung ương cấpcho các địa phương. Khám phát hiện bướu cổ.- Không có kinh phí, các hoạt động thường quy tại Trung ương như công tácchỉ đạo tuyến, các hoạt động kiểm tra, giám sát hoạt động chuyên môn ởtuyến dưới, hoạt động sản xuất muối trên toàn quốc không thực hiện được.- Cán bộ làm công tác phòng chống bướu cổ tại Trung ương chuyển sanglàm công tác khác, do đó không thực hiện được nhiệm vụ chỉ đạo, kiểm tra,giám sát nên các hoạt động bị thả nổi. Hiện tại Trung ương chỉ còn vài cánbộ hoạt động kiêm nhiệm làm công tác phòng chống bướu cổ.- Nghị định 163/2005/NĐ-CP ra đời thay thế cho Nghị định 19/1999/NĐ -CP, trong đó điều quan trọng và then chốt nhất liên quan đến i-ốt muối hóatoàn dân theo các quy chuẩn quốc tế - rằng muối dùng cho người ăn phải làmuối i-ốt lại bị loại bỏ.- Từ năm 2006, kinh phí chi cho hoạt động phòng chống bướu cổ (PCBC) doUBND các tỉnh, thành phố cung cấp cho các hoạt động thường quy tại địaphương. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khách quan lẫn chủ quan, dẫn đến nhiềuđịa phương không bố trí kinh phí hoặc chỉ bố trí một lượng kinh phí quá ítcho hoạt động PCBC tại địa phương.- Không có kinh phí triển khai các hoạt động thường quy, hoạt động PCBCbị buông lỏng, cán bộ làm công tác PCBC chuyển sang làm công tác khácdẫn đến nguy cơ tan rã hệ thống.- Việc triển khai thành lập hệ thống trung tâm nội tiết (TTNT) theo quy địnhcủa Chính phủ diễn ra chậm, hiện cả nước mới có 11 TTNT, chủ yếu ở khuvực phía Bắc. Các tỉnh còn lại tồn tại ở nhiều mô hình khác nhau như Trungtâm y tế dự phòng, Trung tâm sốt rét - nội tiết; Trung tâm sốt rét - bướu cổ;Trung tâm dinh dưỡng... nên rất khó khăn trong chỉ đạo điều hành. Cần bổ sung i-ốt vào thực phẩm.- Xin ông cho biết, Nghị định 163/2005 của Chính phủ từ năm 2005 đến nayđã được thực hiện như thế nào?- Nghị định 163/2005/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày29/12/2005 quy định rất rõ chức năng của các bộ, ngành, chính quyền cáccấp về cung ứng và sản xuất muối i-ốt. Tuy nhiên, việc thực thi nghị địnhkhông được quan tâm hay nói cách khác, chưa đi vào cuộc sống. Bộ Tàichính - Bộ Y tế cũng có Thông tư liên bộ 147/YT-TC qui định mức chi chogiám sát chất lượng muối nhưng nhiều tỉnh không cấp kinh phí cho hoạtđộng này.- Như trên ông đã nói, việc bổ sung i-ốt vào muối ăn hằng ngày là biện pháphiệu quả trong việc dự phòng các rối loạn do thiếu hụt i-ốt? Tuy nhiên, cónhiều người lo lắng rằng i-ốt sẽ bị phân hủy ở nhiệt độ cao, do đó việc bổsung i-ốt vào muối ăn liệu có mang lại hiệu quả như mong muốn?- I-ốt là nguyên tố vô cơ vi lượng rất cần cho con người thường xuyên, liêntục mà con người không tự tổng hợp được. Trong khi đó, lượng i-ốt từ bênngoài cung cấp qua thức ăn ngày càng nghèo đi do hiện tượng i-ốt trong đấtbị mất dần bởi mưa, lũ cuốn trôi...Trên thế giới đã có nhiều phương pháp bổ sung thêm i-ốt cho con người nhưdùng dầu i-ốt, muối i-ốt (MI), các chế phẩm khác như nước uống, bánh ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
y học phổ thông kiến thức sức khoẻ y tế sức khoẻ cách chăm sóc sức khoẻ nghiên cứu y họcGợi ý tài liệu liên quan:
-
Tổng quan hệ thống về lao thanh quản
6 trang 305 0 0 -
5 trang 299 0 0
-
8 trang 255 1 0
-
Tổng quan hệ thống hiệu quả kiểm soát sâu răng của Silver Diamine Fluoride
6 trang 244 0 0 -
Vai trò tiên lượng của C-reactive protein trong nhồi máu não
7 trang 227 0 0 -
Phương pháp lọc màng bụng cho những người bệnh suy thận
6 trang 226 0 0 -
Khảo sát hài lòng người bệnh nội trú tại Bệnh viện Nhi Đồng 1
9 trang 214 0 0 -
8 trang 197 0 0
-
13 trang 195 0 0
-
5 trang 194 0 0