(Ghi chú: Đưa lại các bài này lên blog của mình, không có nghĩa là tôi đồng ý, đồng tình với nội dung của chúng. Lý do ở đây, đơn giản chỉ là tạo thêm nguồn tư liệu tham khảo…-Nguyên Hưng)
Đào Mai Trang
Có vẻ không thể khi làm một nghiên cứu "nghiêm ngắn" về mỹ thuật đương đại Việt Nam trong thời điểm hiện tại. Như ý kiến của một số nhà nghiên cứu, phê bình mỹ thuật, cần phải có một độ lùi nhất định về thời gian để tìm hiểu và để xem sự tự khẳng định của...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Một làn sóng nghệ thuật mới đang đến
Một làn sóng nghệ thuật mới
đang đến (*)
(Ghi chú: Đưa lại các bài này lên blog của mình, không có nghĩa là
tôi đồng ý, đồng tình với nội dung của chúng. Lý do ở đây, đơn giản
chỉ là tạo thêm nguồn tư liệu tham khảo…-Nguyên Hưng)
Đào Mai Trang
Có vẻ không thể khi làm một nghiên cứu nghiêm ngắn về mỹ thuật
đương đại Việt Nam trong thời điểm hiện tại. Như ý kiến của một số
nhà nghiên cứu, phê bình mỹ thuật, cần phải có một độ lùi nhất định về
thời gian để tìm hiểu và để xem sự tự khẳng định của nghệ sĩ cùng như
tác phẩm của họ.
Sự cẩn trọng của công việc nghiên cứu và phê bình luôn luôn cần thiết.
Tuy nhiên, cũng nên lưu ý đến một số khía cạnh: Nếu xét theo giới hạn
thời gian, mỹ thuật đương đại (tức là các hình thức nghệ thuật thị giác
mới ngoài tranh giá vẽ và nặn tượng: Sắp đặt, trình diễn, video art,
nghệ thuật đa phương tiện...) đã xuất hiện ở Việt Nam từ đầu thập niên
90, thế kỷ trước, như vậy cho đến thời điểm hiện tại, chúng đã tồn tại
qua gần hai thập kỷ. Bởi vậy, việc một số ý kiến bảo thủ, cho rằng các
hình thức này vì lai căng, bắt chước “Tây” nên sẽ chết yểu là không có
cơ sở thực tế. Nếu xét từ góc độ người thực hiện các sáng tác nghệ
thuật này, họ đã có một sự tiếp nối thế hệ liên tục theo thời gian, và đặc
biệt, căn cứ trên sáng tác và ý niệm từ các sáng tác nghệ thuật của họ,
sẽ thấy khá rõ nét sự biến đổi qua từng giai đoạn trong cách thức ứng
xử với dạng thức nghệ thuật mới (ở Việt Nam) này. Bài viết nhỏ dưới
đây sẽ cố gắng khái lược, căn cứ trên sáng tác của nghệ sĩ, về sự biến
đổi nói trên.
Giai đoạn thứ nhất
Một số đại diện của thế hệ này có thể kể đến Trương Tân, Trần Lương,
Nguyễn Minh Thành, Đào Anh Khánh,... (1) Xét từ góc độ quan niệm,
họ là những người đầu tiên đưa ra cho công chúng Việt Nam một quan
niệm khác về mỹ thuật. Mỹ thuật, trước tiên là một sáng tạo thị giác,
một nghệ thuật thị giác, và còn là là một dạng thức nghệ thuật không
gian. Vì vậy, một sáng tác mỹ thuật không thể được (bị) cảm thụ, tiếp
nhận theo cách thức cũ như một thói quen. Nghệ sĩ được thoải mái hơn
trong cách thức thể hiện tác phẩm và tự do hơn trong việc bộc lộ cảm
xúc. Hơn nữa, với các sáng tác trình diễn hoặc sắp đặt kết hợp trình
diễn, nghệ sĩ lại chính là một phần của tác phẩm nên tính nguyên bản
và độc nhất của một tác phẩm nghệ thuật đương đại đáng được lưu tâm,
như một giá trị cốt lõi của tác phẩm ấy.
Như vậy, cái tam giác quan hệ nghệ sĩ- tác phẩm- công chúng đã có sự
vận động lớn, khác hẳn về tính chất: Nghệ sĩ không phải chỉ tạo ra tác
phẩm, đặt vào đó tinh thần, cảm xúc cá nhân, mà còn là một phần cơ
thể vật chất, nói cách khác, chính là một phần chất liệu, của tác phẩm
ấy. Công chúng đã bắt đầu làm quen với một khái niệm mới trong ứng
xử với tác phẩm: tương tác với chúng một cách trực tiếp và có tính vật
chất, đơn giản là chạm vào chúng (với các sáng tác sắp đặt), xa hơn thì
là bộc lộ cảm xúc tức thời như xê dịch vị trí đứng xem theo sự di
chuyển của nghệ sĩ, cười nói, hú hét,... tạo nên một hiệu ứng bổ sung
cho tác phẩm, xa hơn nữa thì phụ giúp nghệ sĩ hoàn thiện tác phẩm
(như trong các trình diễn của nghệ sĩ Đào Anh Khánh).
Trước đây, khi mỹ thuật chỉ bao gồm tranh và tượng, công chúng hoàn
toàn là khách thể của mỹ thuật. Trong bảo tàng mỹ thuật, công chúng
còn phải tuân thủ một nguyên tắc không chạm tay vào hiện vật. Như
vậy, khi so sánh cách ứng xử trong tương quan công chúng- tác phẩm,
lại càng thấy sự vận động của tam giác quan hệ như nêu trên là thực sự
đáng kể.
Tuy nhiên, nếu nhìn nhận lại kỹ lưỡng hơn về vị trí của công chúng
trong sáng tác của thế hệ nghệ sĩ thứ nhất, sẽ thấy họ vẫn chỉ dừng lại là
người quan sát (người xem); giống hệt như vị trí của họ trong tương
quan truyền thống. Khác chăng là người quan sát đương đại này có
điều kiện, có hoàn cảnh để bộc lộ sự tích cực trong vị trí quan sát ấy,
nâng nó lên thành một sự tương tác trực tiếp với tác phẩm, trong một
chừng mực nhất định.
Giai đoạn thứ hai
Họ là, ví dụ, Trí Mạnh, Lê Vũ, Nguyễn Minh Phước, Nguyễn Mạnh
Hùng,...
Điểm khác cơ bản của họ với thế hệ ban đầu là họ không những tham
gia vào tác phẩm của mình mà còn đề nghị những người dân thường,
không phải là nghệ sĩ, tham gia vào cùng (2). Nghĩa là, đã có sự mở
rộng biên độ của chất liệu làm nên tác phẩm. Tuy nhiên, vì tính chất
sống của chất liệu này, nên sự biến thiên của tác phẩm là khó đoán
biết, đem lại một hiệu ứng nghệ thuật rất đáng được chờ đợi. Vì vậy, nó
đòi hỏi công chúng chứng kiến tác phẩm này một sự tham dự nhiều hơn
nữa, ở khía cạnh sự tập trung theo dõi, cảm xúc dành cho tác phẩm và
sự mở rộng thêm khái niệm về nghệ thuật. Hơn nữa, sự tham gia của
những người dân thường vào sáng tác đem lại cảm giác về tính bình
dân hoá của nghệ thuật và như vậy, có vẻ như mỹ thuật đã bị bớt đi sự
diệu vợi xa cách, và đến gần với mỗi người. Tất nhiên, vị trí của người
dân thường tham gia sáng tác ở đây vẫn là một vị trí thụ động, vì họ
làm theo chỉ dẫn của nghệ sĩ- tác giả.
Song, cái vị trí người quan sát của công chúng (rộng hơn, những người
đến chứng kiến tác phẩm, xem tác phẩm) trong trường hợp này vẫn
không thay đổi. Và suy xét sâu hơn nữa, sẽ thấy, cái tam giác nghệ sĩ-
tác phẩm- công chúng vẫn là một quan hệ như trước, nghĩa là giữa
chúng còn những lằn ranh, khoảng cách không thể xóa nhòa mặc dù đã
có sự thay đổi về chất.
Nhưng có vẻ như một điều quan trọng khác đang đến, đó là một sự thay
đổi hoàn toàn cho cái tam giác này, đúng hơn là không còn cái tam giác
này nữa vì ba yếu tố ấy đã hoà vào làm một, và biến động, hoà quyện
hoặc tách rời nhau tuỳ theo bối cảnh của tác phẩm. Người viết bài
muốn nhắc đến thế hệ nghệ sĩ mỹ thuật đương đại thứ ba.
Giai đoạn hiện tại
Họ là, ví dụ, Như Huy, Kim Hoàng, Ngô Lực, Phạm Văn Trường,...
Người viết bài muốn bắt đầu từ dự án Việt dã nghệ thuật (tháng 9 đến
tháng 11- 2007 tại một số địa điểm ở thành phố Hồ Chí Minh) của Như
Huy(3). Dự án này bao gồm nhiều dự ...