Danh mục

Một mệnh lệnh triệt tiêu nghệ thuật

Số trang: 11      Loại file: pdf      Dung lượng: 227.54 KB      Lượt xem: 16      Lượt tải: 0    
Jamona

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

“Họa sĩ phải vẽ sao cho công chúng hiểu”, “vẽ, để phục vụ công chúng”… tưởng đã là chuyện của quá khứ. Thế mà, cho đến nay, thỉnh thoảng, vẫn còn nghe vang vang trên các diễn đàn chính thức (trên báo chí, trong các cuộc hội thảo…). Từ miệng của không ít nhà phê bình, nhà quản lý, và một số họa sĩ - như một mệnh lệnh. Không chỉ như một mệnh lệnh chính trị, nó còn được xem như một mệnh lệnh của lương tri, của đạo đức (bao giờ nó cũng được nhắc đến gắn liền...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Một mệnh lệnh triệt tiêu nghệ thuật Một mệnh lệnh triệt tiêu nghệ thuật “Họa sĩ phải vẽ sao cho công chúng hiểu”, “vẽ, để phục vụ công chúng”… tưởng đã là chuyện của quá khứ. Thế mà, cho đến nay, thỉnh thoảng, vẫn còn nghe vang vang trên các diễn đàn chính thức (trên báo chí, trong các cuộc hội thảo…). Từ miệng của không ít nhà phê bình, nhà quản lý, và một số họa sĩ - như một mệnh lệnh. Không chỉ như một mệnh lệnh chính trị, nó còn được xem như một mệnh lệnh của lương tri, của đạo đức (bao giờ nó cũng được nhắc đến gắn liền với một giọng điệu quyết đoán hay đầy bức xúc về “bản sắc độc đáo”, về “truyền thống vẻ vang”, về “lịch sử hào hùng” v.v… của dân tộc.) Có thể nói ngay, đây là một mệnh lệnh kỳ lạ và phi lý, hơn nữa, còn có hại; cái hại lớn nhất là triệt tiêu nghệ thuật. Bởi: Trước hết, nên hiểu như thế nào về khái niệm “công chúng”. “Công chúng”, ngày xưa, trong hoàn cảnh thuộc địa -tất cả đều là “kẻ bị áp bức, bóc lột”-, hay chiến tranh -tất cả đều là “chiến sĩ cách mạng”-, có thể, còn mang lại một hình dung nhất định nào đó. Nhưng đến giờ, nó đã là một khái niệm rỗng, mơ hồ. Xã hội đã phân hóa rất nhiều -theo vùng, miền, theo quan hệ kinh tế, theo trình độ học vấn v.v…- ngày càng phức tạp. “Công chúng” không còn là một đám “dân ngu cu đen” như nhau, mà là tầng tầng lớp lớp khác nhau. Trước sự phân hóa như vậy, “công chúng”, nên hiểu là công chúng nào? “Công, Nông, Binh” như vẫn hay nói trước đây chăng? Hoàn toàn không ổn. Phải mù lắm mới không thấy, ngay ở thành phần này, cũng đã phân hóa nhiều rồi. Ít nhất là về trình độ nhận thức, về nhu cầu văn hóa. Trong tầm nhận thức của mỗi người, đâu chỉ còn là những câu chuyện cổ tích, những ca dao tục ngữ vần vè, những giai thoại, huyền thoại huyễn hoặc , hay những qui ước, luật lệ bày đặt tủn mủn…, mà đã là cả một thế giới thông tin ngày càng trở nên bề bộn, đa chiều với đủ các biểu tượng xã hội mới mẻ, các lực hấp dẫn khác nhau, làm bùng vỡ các ý thức cá nhân và tinh thần phê phán… Và, trong kinh nghiệm thị giác mỗi người, đâu còn chỉ là những sắc nâu, sắc xám của không gian sinh hoạt nghèo nàn mọi thứ như trước…, mà đã rộn ràng sắc màu “siêu thị”, tuy ở ngoại vi nhưng vẫn là thành phần, không thể chối cãi, của nền kinh tế hàng hóa toàn cầu hóa v.v… Nói chung, mọi thứ đã thay đổi. Môi trường sống thay đổi, cách nhìn, cách nghĩ cũng thay đổi. Họ đâu còn là một khối đông thuần nhất. Thử hỏi bao nhiêu họa sĩ đã từng có những “kỷ niệm sâu sắc” với thành phần công chúng này -như Huỳnh Phương Đông, như Nguyễn Thanh Châu chẳng hạn- bây giờ, đang mơ điều gì? Cả thảy, dường như, chỉ còn mơ đến bảo tàng, hay mơ… trở lại ngày xưa!… Tiếp theo, nên hiểu thế nào về khái niệm “hiểu”. “Hiểu”, trong nghệ thuật là một khái niệm không đơn giản chút nào. Ngày xưa, trong bối cảnh truyền thông chưa phát triển, đặc biệt trong điều kiện bất thường của cuộc sống thời chiến, khó khăn thiếu thốn mọi bề, mỹ thuật trong sự nối tiếp truyền thống ước lệ của nghệ thuật Lãng mạn và Hiện thực chủ nghĩa hình thành trước đó, một mặt, được bẻ ngoặt theo hướng65n thhướng Hiện thực Xã hội chủ nghĩa “phản ánh theo kiểu gương soi”, một mặt, đơn giản hóa thành một phương tiện thay thế để chuyên chở các hình ảnh tuyên truyền, cổ động, khái niệm “hiểu” mới có được ít nhiều chuẩn mực nhất định theo cách riêng. “Hiểu”, là hiểu cái được “phản ánh” -cái “câu chuyện”, cái “hình tượng”, cái “tư tưởng” được mô tả, thể hiện trên tranh, tượng… Ngày nay, mỹ thuật, không thể tồn tại được mãi ở một cách nhìn và ở tư cách thế vì như vậy được nữa. Ngay ở những tư cách này, nhiếp ảnh, báo chí, truyền hình… bây giờ làm tốt hơn nó rất nhiều -cả về lượng lẫn về chất. Buộc nó phải tiếp tục như vậy là giết chết nó… Hơn nữa, khi đã không có một “công chúng” nói chung, thì làm gì có một cách hiểu chung về nghệ thuật. Trong một cách nhìn nào đó, “hiểu thế nào” là điều có thể áp đặt. Nhưng đến giờ, áp đặt một cách hiểu độc tôn như đã từng có thực sự đã là điều không tưởng. Và chỉ có hại. Tiếp theo nữa, nên hiểu như thế nào về khái niệm “phục vụ”. Trong nghệ thuật, đây cũng là một khái niệm phức tạp, mà cho đến nay, với số đông họa sĩ, nó được xem, đơn giản, chỉ là sự “thức tỉnh” mang tính cá nhân. Còn mọi “định nghĩa hóa” mang tính thể chế đều luôn được xem là cực đoan-duy ý chí. Thực tế là như vậy. Thời chiến tranh, nói là phục vụ công chúng, nhưng ai cũng biết, thực chất là phục vụ chính trị. Nghệ thuật phải có “tính đại chúng” là để phục vụ chính trị hiệu quả. Trong điều kiện xã hội ngày nay, việc đề cao “tính đại chúng” như vậy, có còn mang lại hiệu quả chính trị hay không? Từ những điều phân tích ở trên, ở ngay góc nhìn chính trị, cũng dễ thấy, câu trả lời chắc chắn là không. Mỹ thuật mang “tính đại chúng” -đang được số đông yêu thích- thực chất, đang chỉ nuôi sống, thậm chí làm giàu cho các họa sĩ chuyên vẽ tranh thương mại, mà chúng ta đã không ngừng la lên là chỉ có “suy đồi”… Còn mỹ thuật đang tự cho là “phục vụ công chúng”, thể hiện tập trung nơi hệ thống tượng đài dựng ở khắp mọi nơi, thì phần lớn, chỉ như những ví dụ về sự thống trị của cái phản thẩm mỹ, phi nghệ thuật - phí công, phí của- bị chi phối bởi những cái nhìn “đại diện” nào đó mà báo chí trong nước lâu nay cũng đã lên tiếng phê phán rất nhiều mà thôi… * Đối với số đông họa sĩ, những mệnh lệnh cũ kỹ và kỳ lạ ấy là những chuyện họ không quan tâm nữa. Một phần, những ràng buộc của cơ chế tuy còn nhưng đã không còn quá nặng nề. Hơn nữa, bối cảnh xã hội “mở cửa” thông thoáng với thế giới bên ngoài, và sự phát triển của thị trường nghệ thuật, đã cho họ một khoảng tự do nhất định để có thể phớt lờ những mệnh lệnh như thế -hoặc, chỉ quan tâm đến các yêu cầu của thị trường, hoặc, chỉ chăm chú vào công việc sáng tác của mình. Phần khác, trong suy nghĩ của đa số người có thái độ nghiêm túc với nghệ thuật thì, trung tâm của mọi nền nghệ thuật là bản thân công việc sáng tạo, là tác phẩm nghệ thuật -những thứ mà thực tế, không ai có thể cầm buộc được. Điề ...

Tài liệu được xem nhiều: