Một số tác động xã hội của nghề nuôi tôm ở vùng đầm phá Tam Giang - Cầu Hai, Thừa Thiên Huế
Số trang: 5
Loại file: doc
Dung lượng: 81.00 KB
Lượt xem: 17
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Trong những năm gần đây, nghề nuôi tôm ở vùng đầm phá Tam Giang - Cầu Hai, tỉnh Thừa Thiên - Huế đã gặt hái được nhiều thành quả về kinh tế đáng khích lệ. Kết quả này có tác động thúc đẩy các quá trình xã hội phát triển theo. Trong bài viết nàu, các tác giả trình bày một số tác động xã hội do nghề nuôi tôm mang lại, đồng thời đưa ra một số quan điểm tổng quát cho sự phát triển.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Một số tác động xã hội của nghề nuôi tôm ở vùng đầm phá Tam Giang - Cầu Hai, Thừa Thiên Huế TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 13, 2002 MỘT SỐ TÁC ĐỘNG XÃ HỘI CỦA NGHỀ NUÔI TÔM Ở VÙNG ĐẦM PHÁ TAM GIANG CẦU HAI, THỪA THIÊN HUẾ Lê Sỹ Hùng Khoa Kinh tế, Đại học Huế Vùng đầm phá Tam Giang Cầu Hai với diện tích mặt nước gần 22.000 ha và có dạng như một đoạn sông lớn chạy dọc theo bờ biển với chiều dài 68 km. Vùng đầm phá nước lợ này là một hệ sinh thái độc đáo về giá trị cảnh quan và tài nguyên sinh học. Bên cạnh đó, đây còn là vùng thủy vực ven biển tương đối kín và an toàn. Chính vì vậy, một cộng đồng cư dân của 36 xã đã sinh cơ lập nghiệp, phát triển cuộc sống bằng nguồn lợi sinh học và sản phẩm nông nghiệp trên vùng đất cát ven phá. Song do áp lực gia tăng dân số và sự suy giảm nguồn lợi sinh học, nên nuôi trồng thủy sản nói chung, nuôi tôm nói riêng đang được Chính quyền địa phương và người dân ở đây quan tâm. Trong những năm gần đây, nghề nuôi tôm ở vùng đầm phá Tam Giang Cầu Hai, tỉnh Thừa Thiên Huế đã gặt hái được nhiều thành quả về kinh tế đáng khích lệ. Kết quả này có tác động thúc đẩy các quá trình xã hội phát triển theo. Tuy nhiên, nó cũng tạo ra một số mâu thuẫn về mặt xã hội. Đây là kết quả tất yếu của quá trình phát triển tự phát. Bài viết này chúng tôi sẽ trình bày một số tác động xã hội do nghề nuôi tôm mang lại, đồng thời đưa ra một số quan điểm tổng quát cho sự phát triển. 1. Tác động xã hội của nghề nuôi tôm 1.1. Sự đa dạng ngành nghề Lao động vùng đầm phá chủ yếu là nông nghiệp (trên 50%), tiếp đến là thủy sản (khoảng 39%), số còn lại là nghành nghề, dịch vụ hoặc đi làm thuê. Từ khi có phong trào nuôi tôm ở vùng đầm phá, cơ cấu ngành nghề đã thực sự thay đổi không chỉ đơn thuần là khái niệm kiểu hộ, mà còn thay đổi cả tính chất nghề theo hướng đa dạng hóa, mà chúng ta khó có thể phân biệt một cách rạch ròi. Trong hai loại cộng đồng phổ biến là nông nghiệp và ngư nghiệp thì cộng đồng nông nghiệp được cấp quyền sử dụng ruộng đất, cộng đồng ngư nghiệp kể cả những người định cư và dân thủy cư, chỉ có quyền giới hạn đối với mặt nước chung. Tuy nhiên, nghành nghề của họ rất đa dạng. Một số nông dân khai thác hoặc nuôi trồng thủy sản thông qua việc mua sắm ngư cụ hoặc quyền sử dụng ngư trường. Một số ngư dân phát triển trồng trọt và chăn nuôi gia súc thông qua việc đấu thầu quyền sử dụng đất. 69 Hiện nay, vùng đầm phá đã xuất hiện một số ngư dân làm công tác thu gom sản phẩm thủy sản. Những hộ này, được cư dân nơi đây gọi là Chủ nậu. Họ thường là các hộ kiêm nghiệp vừa nuôi tôm vừa kinh doanh dịch vụ. Chúng tôi cho rằng đây là loại hình kinh doanh theo dạng Doanh nghiệp tư nhân ở nông thôn. Những hộ này có vai trò kinh tế rất quan trọng ở địa phương, chính họ là người đứng ra giải quyết vấn đề đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất. Họ là chủ thể đứng ra giải quyết vấn đề cung cầu của cộng đồng, họ chi phối thị trường không chỉ ở giá cả sản phẩm thủy sản, mà còn giá cả của các mặt hàng thiết yếu trong đời sống hàng ngày của ngư dân. Phương thức kinh doanh của họ là cho ngư dân vay vốn và thu lãi hàng tháng, thông thường lãi suất tiền vay cao gấp 2 đến 2,5 lần lãi suất ngân hàng. Hoặc họ trực tiếp đầu tư một phần vốn cho ngư dân nuôi tôm, đến khi thu hoạch ngư dân phải bán sản phẩm cho họ với giá thấp hơn giá thị trường. Theo chúng tôi, đây là thành phần quan trọng, họ có khả năng tài chính để kiểm soát quá trình sản xuất và đời sống xã hôi của cộng đồng ngư dân, khi mà chính quyền và các thiết chế xã hội khác chưa phát huy được vai trò của mình. Từ khi có phong trào nuôi tôm, ở vùng đầm phá đã xuất hiện một nghề mới, mà người dân ở đây thường gọi là nghề thợ đụng. Họ là những người đi làm thuê cho các hộ nuôi tôm. Công việc mà họ thường làm là đào ao, đắp đê ao, làm nhà chồ, thu hoạch sản phẩm trong các ao nuôi... Và nói chung ai thuê gì làm nấy. Như vậy, nếu xét trên góc độ tiền công lao động, việc làm thu nhập ta thấy, ở đây đã manh nha xuất hiện thị trường lao động. Người lao động có khả năng thay đổi việc làm rất cao, có khả năng cơ động nhanh từ nghề này sang nghề khác, từ địa phương này sang địa phương khác để giải quyết nhu cầu của công việc. Đây chính là qui luật của nền kinh tế thị trường, do quan hệ cung cầu về lao động chi phối. 1.2 Tạo việc làm tăng thu nhập cho người lao động Phát triển nuôi tôm, với sự đa dạng hóa các hình thức nuôi đã tạo công ăn việc làm cho người lao động, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho các ngư hộ và đóng góp quan trọng vào kim nghạch xuất khẩu của Tỉnh. Trước đây, ngư dân hoàn toàn dựa vào nghề khai thác tự nhiên, khai thác nguồn lợi của vùng Đầm phá để kiếm sống, vì thế cơ cấu ngành nghề rất đơn giản. Nhưng từ khi phong trào nuôi tôm phát triển thì cơ cấu ngành nghề đã có sự biến đổi mạnh mẽ. Quả thật, khi tiếp xúc với cộng đồng ngư dân, chúng tôi nhận thấy không chỉ ở ngoài đầm phá người lao động mới làm nhiều công việc, mà ngay người ở nhà cũng không kém phần vất vã, họ bị cuốn hút vào nhiều công việc mang tính chất dịch vụ hay chuẩn bị cho quá trình sản xuất. Khi ngư dân đã đạt được hiệu quả cao trong sản xuất và xây dựng được mô hình nuôi thích hợp thì phong trào nuôi tôm phát triển mạnh, đời sống của họ được cải thiện, một số hộ đã xây dựng được cả cơ ngơi đồ sộ từ lợi tức của nuôi tôm. Một khía cạnh đáng chú ý của vấn đề lao động việc làm ở đây là tính chất thời vụ của công việc. Nếu vào mùa nắng trong thời vụ nuôi trồng hoặc đánh bắt, người dân ở đây làm không hết việc, nhưng nếu vào mùa mưa (tháng 11 đến tháng 2 năm sau) ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Một số tác động xã hội của nghề nuôi tôm ở vùng đầm phá Tam Giang - Cầu Hai, Thừa Thiên Huế TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 13, 2002 MỘT SỐ TÁC ĐỘNG XÃ HỘI CỦA NGHỀ NUÔI TÔM Ở VÙNG ĐẦM PHÁ TAM GIANG CẦU HAI, THỪA THIÊN HUẾ Lê Sỹ Hùng Khoa Kinh tế, Đại học Huế Vùng đầm phá Tam Giang Cầu Hai với diện tích mặt nước gần 22.000 ha và có dạng như một đoạn sông lớn chạy dọc theo bờ biển với chiều dài 68 km. Vùng đầm phá nước lợ này là một hệ sinh thái độc đáo về giá trị cảnh quan và tài nguyên sinh học. Bên cạnh đó, đây còn là vùng thủy vực ven biển tương đối kín và an toàn. Chính vì vậy, một cộng đồng cư dân của 36 xã đã sinh cơ lập nghiệp, phát triển cuộc sống bằng nguồn lợi sinh học và sản phẩm nông nghiệp trên vùng đất cát ven phá. Song do áp lực gia tăng dân số và sự suy giảm nguồn lợi sinh học, nên nuôi trồng thủy sản nói chung, nuôi tôm nói riêng đang được Chính quyền địa phương và người dân ở đây quan tâm. Trong những năm gần đây, nghề nuôi tôm ở vùng đầm phá Tam Giang Cầu Hai, tỉnh Thừa Thiên Huế đã gặt hái được nhiều thành quả về kinh tế đáng khích lệ. Kết quả này có tác động thúc đẩy các quá trình xã hội phát triển theo. Tuy nhiên, nó cũng tạo ra một số mâu thuẫn về mặt xã hội. Đây là kết quả tất yếu của quá trình phát triển tự phát. Bài viết này chúng tôi sẽ trình bày một số tác động xã hội do nghề nuôi tôm mang lại, đồng thời đưa ra một số quan điểm tổng quát cho sự phát triển. 1. Tác động xã hội của nghề nuôi tôm 1.1. Sự đa dạng ngành nghề Lao động vùng đầm phá chủ yếu là nông nghiệp (trên 50%), tiếp đến là thủy sản (khoảng 39%), số còn lại là nghành nghề, dịch vụ hoặc đi làm thuê. Từ khi có phong trào nuôi tôm ở vùng đầm phá, cơ cấu ngành nghề đã thực sự thay đổi không chỉ đơn thuần là khái niệm kiểu hộ, mà còn thay đổi cả tính chất nghề theo hướng đa dạng hóa, mà chúng ta khó có thể phân biệt một cách rạch ròi. Trong hai loại cộng đồng phổ biến là nông nghiệp và ngư nghiệp thì cộng đồng nông nghiệp được cấp quyền sử dụng ruộng đất, cộng đồng ngư nghiệp kể cả những người định cư và dân thủy cư, chỉ có quyền giới hạn đối với mặt nước chung. Tuy nhiên, nghành nghề của họ rất đa dạng. Một số nông dân khai thác hoặc nuôi trồng thủy sản thông qua việc mua sắm ngư cụ hoặc quyền sử dụng ngư trường. Một số ngư dân phát triển trồng trọt và chăn nuôi gia súc thông qua việc đấu thầu quyền sử dụng đất. 69 Hiện nay, vùng đầm phá đã xuất hiện một số ngư dân làm công tác thu gom sản phẩm thủy sản. Những hộ này, được cư dân nơi đây gọi là Chủ nậu. Họ thường là các hộ kiêm nghiệp vừa nuôi tôm vừa kinh doanh dịch vụ. Chúng tôi cho rằng đây là loại hình kinh doanh theo dạng Doanh nghiệp tư nhân ở nông thôn. Những hộ này có vai trò kinh tế rất quan trọng ở địa phương, chính họ là người đứng ra giải quyết vấn đề đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất. Họ là chủ thể đứng ra giải quyết vấn đề cung cầu của cộng đồng, họ chi phối thị trường không chỉ ở giá cả sản phẩm thủy sản, mà còn giá cả của các mặt hàng thiết yếu trong đời sống hàng ngày của ngư dân. Phương thức kinh doanh của họ là cho ngư dân vay vốn và thu lãi hàng tháng, thông thường lãi suất tiền vay cao gấp 2 đến 2,5 lần lãi suất ngân hàng. Hoặc họ trực tiếp đầu tư một phần vốn cho ngư dân nuôi tôm, đến khi thu hoạch ngư dân phải bán sản phẩm cho họ với giá thấp hơn giá thị trường. Theo chúng tôi, đây là thành phần quan trọng, họ có khả năng tài chính để kiểm soát quá trình sản xuất và đời sống xã hôi của cộng đồng ngư dân, khi mà chính quyền và các thiết chế xã hội khác chưa phát huy được vai trò của mình. Từ khi có phong trào nuôi tôm, ở vùng đầm phá đã xuất hiện một nghề mới, mà người dân ở đây thường gọi là nghề thợ đụng. Họ là những người đi làm thuê cho các hộ nuôi tôm. Công việc mà họ thường làm là đào ao, đắp đê ao, làm nhà chồ, thu hoạch sản phẩm trong các ao nuôi... Và nói chung ai thuê gì làm nấy. Như vậy, nếu xét trên góc độ tiền công lao động, việc làm thu nhập ta thấy, ở đây đã manh nha xuất hiện thị trường lao động. Người lao động có khả năng thay đổi việc làm rất cao, có khả năng cơ động nhanh từ nghề này sang nghề khác, từ địa phương này sang địa phương khác để giải quyết nhu cầu của công việc. Đây chính là qui luật của nền kinh tế thị trường, do quan hệ cung cầu về lao động chi phối. 1.2 Tạo việc làm tăng thu nhập cho người lao động Phát triển nuôi tôm, với sự đa dạng hóa các hình thức nuôi đã tạo công ăn việc làm cho người lao động, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho các ngư hộ và đóng góp quan trọng vào kim nghạch xuất khẩu của Tỉnh. Trước đây, ngư dân hoàn toàn dựa vào nghề khai thác tự nhiên, khai thác nguồn lợi của vùng Đầm phá để kiếm sống, vì thế cơ cấu ngành nghề rất đơn giản. Nhưng từ khi phong trào nuôi tôm phát triển thì cơ cấu ngành nghề đã có sự biến đổi mạnh mẽ. Quả thật, khi tiếp xúc với cộng đồng ngư dân, chúng tôi nhận thấy không chỉ ở ngoài đầm phá người lao động mới làm nhiều công việc, mà ngay người ở nhà cũng không kém phần vất vã, họ bị cuốn hút vào nhiều công việc mang tính chất dịch vụ hay chuẩn bị cho quá trình sản xuất. Khi ngư dân đã đạt được hiệu quả cao trong sản xuất và xây dựng được mô hình nuôi thích hợp thì phong trào nuôi tôm phát triển mạnh, đời sống của họ được cải thiện, một số hộ đã xây dựng được cả cơ ngơi đồ sộ từ lợi tức của nuôi tôm. Một khía cạnh đáng chú ý của vấn đề lao động việc làm ở đây là tính chất thời vụ của công việc. Nếu vào mùa nắng trong thời vụ nuôi trồng hoặc đánh bắt, người dân ở đây làm không hết việc, nhưng nếu vào mùa mưa (tháng 11 đến tháng 2 năm sau) ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Nghề nuôi tôm Tác động nghề nuôi tôm Tác động xã hội Phát triển kinh tế Phát triển nghề nuôi tôm Nuôi trồng thủy sảnTài liệu liên quan:
-
78 trang 348 2 0
-
Cải cách mở cửa của Trung Quốc & kinh nghiệm đối với Việt Nam
27 trang 271 0 0 -
Tổng quan về việc sử dụng Astaxanthin trong nuôi trồng thủy sản
10 trang 258 0 0 -
Thông tư số 08/2019/TT-BNNPTNT
7 trang 245 0 0 -
225 trang 222 0 0
-
Đề tài Thực trạng và nhưng giải pháp cho công tác quy hoạch sử dụng đất'
35 trang 216 0 0 -
2 trang 200 0 0
-
Tìm hiểu các kỹ thuật nuôi trồng thuỷ sản (Tập 1): Phần 1
66 trang 199 0 0 -
Lý thuyết kinh tế và những vấn đề cơ bản: Phần 2
132 trang 194 0 0 -
Triển khai chương trình phát triển bền vững quốc gia trong ngành thủy sản
7 trang 184 0 0