Danh mục

Một số thuật ngữ cơ bản Phân Tích Kỹ Thuật

Số trang: 59      Loại file: doc      Dung lượng: 2.30 MB      Lượt xem: 16      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Xem trước 5 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Cơ sở của phân tích kỹ thuật là lý thuyết Dow. Bản thân Charler H. Dow, cha đẻ của lý thuyết Dow lúc khởi đầu không coi lý thuyết của mình là công cụ để dự báo thị trường cổ phiếu hoặc là công cụ hướng dẫn cho các nhà đầu tư, mà chỉ xem xét chúng như là một hàn thử biểu về xu thế chung của thị trường. William P.Hamilton, người kế nghiệp, đã biên soạn lại thành lý thuyết Dow hiện đại ngày nay. Thuật ngữ xu thế chung của thị trường được hiểu là chỉ số giá trung bình của một số...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Một số thuật ngữ cơ bản Phân Tích Kỹ Thuật Thuật ngữ cơ bản Phân Tích Kỹ Thuật  Cơ sở của phân tích kỹ thuật là lý thuyết Dow. Bản thân Charler H. Dow,  cha đẻ của lý thuyết Dow lúc khởi đầu không coi lý thuyết của mình là công  cụ để dự báo thị trường cổ phiếu hoặc là công cụ hướng dẫn cho các nhà  đầu tư, mà chỉ xem xét chúng như là một hàn thử biểu về xu thế chung của  thị trường. William P.Hamilton, người kế nghiệp, đã biên soạn lại thành lý thuyết Dow hiện  đại ngày nay. Thuật ngữ xu thế chung của thị trường được hiểu là chỉ số giá trung bình của  một số cổ phiếu đại diện.  CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÂN TÍCH KỸ THUẬT­LÝ THUYẾT DOW  Lý thuyết Dow đưa ra các tiền đề cơ bản sau: a. Chỉ số trung bình phản ánh tất cả các hành vi của thị trường. Nó phản ánh toàn bộ hoạt  động thị trường gộp lại của tất cả các nhà đầu tư, nó bao gồm những người có cái nhìn sâu  sắc và có thông tin tốt nhất về xu thế và các sự kiện, nó trung bình hoá lại tất cả các biến  động từng ngày, tất cả những cái gì diễn ra và các điều kiện tác động lên cung và cầu các cổ  phiếu, kể cả những quyết định đầu tư bất ngờ không dự đoán được cũng được phản ánh vào  chỉ số trung bình.  b. Ba xu thế thị trường Xu thế dài hạn của giá các cổ phiếu được gọi là xu thế cấp một. Xu thế này biểu thị sự đi lên,  đi xuống kéo dài trong một hoặc vài năm và kết quả là có sự tăng hoặc giảm giá 20%. Trên  đường diễn biến xu thế cấp một xuất hiện các giai đoạn bị ngắt quãng bởi xu thế cấp hai đi  ngược với xu thế cấp một, nó là các phản ứng hoặc các điều chỉnh khi xu thế cấp một tăng  hoặc giảm quá mức trong một gai đoạn nào đó. Xu thế cấp hai lại bao gồm các xu thế cấp  ba, thường là các biến động ngày này qua ngày khác, là xu thế không có vai trò quan trọng  đối với thị trường.  c. Xu thế cấp một Đó là xu thế chung về sự đi lên hoặc đi xuống kéo dài trong một hoặc thậm chí vài năm. Mỗi  đợt giá tăng mới lại đạt mức cao hơn đợt giá tăng lần trước và cứ mỗi đợt phản ứng giá  reaction, xu hướng giảm giá vẫn ở mức cao hơn đợt phản ứng giá lần trước, nhưng xu thế  cấp một vẫn là xu thế tăng giá. Xu thế cấp một này được gọi là thị trường con bò tót. Ngược  lại, mỗi đợt mới giá giảm lại đạt mức thấp hơn đợt giá giảm lần trước và mỗi đợt tăng giá tiếp  theo không đủ sức đưa mức giá trở về mức tăng giá đợt trước thì xu thế cấp một là xu thế  giảm giá. Xu thế cấp một này được gọi là thị trường con gấu.  d. Xu thế cấp hai Đó là các phản ứng làm ngắt quãng quá trình tăng hoặc giảm của xu thế cấp một. Chúng là  1 các đợt giảm hoặc điều chỉnh trung gian xảy ra trên thị trường con bò tót hoặc các đợt tăng  giá phản nghịch hoặc hồi phục trung gian trên thị trường con gấu. Thường thì xu thế này kéo  dài từ ba tuần đến vài tháng. Chúng thường đảo chiều giá trị khoảng 1/3 đến 2/3 đối với các  đợt tăng giảm lần trước trong quá trình diễn biến của xu thế cấp một. Trong thị trường con bò  tót giá tính theo chỉ số bình quân ngành công nghiệp có thể tăng đều đặn, có sự ngắt quãng  nhỏ, với việc tăng giá khoảng 30% so với đợt điều chỉnh của xu thế cấp hai lần trước. Sự  điều chỉnh này có thể đưa đến kết quả giảm giá 10 điểm đến 20 điểm trước khi đợt tăng giá  trung gian mới của thị trường con bò tót lại bắt đầu.  Như vậy, chúng ta có hai tiêu chuẩn để nhận biết xu thế cấp hai. Bất kỳ sự diễn biến giá cả  đi ngược lại với xu thế cấp một và kéo dài trong ba tuần và đưa đến giảm giá trên 1/3 của đợt  giảm giá lần trước trong xu thế cấp một được coi là xu thế cấp hai.  e. Xu thế cấp ba Đó là các biến động nhỏ thường thì trong 6 ngày, ít khi kéo dài trên 3 tuần và đối với các nhà  lý thuyết Dow thì chúng không có tầm quan trọng. Thường thì trong các đợt trung gian, trong  xu thế cấp hai hoặc giữa hai xu thế cấp hai có khoảng 3 đợt sóng nhỏ có thể phân biệt được.  Xu thế cấp ba chỉ là một trong ba xu thế và chúng dễ bị thao túng.  f. Thị trường con bò tót Xu thế cấp một tăng giá được chia thành ba giai đoạn ba đợt. Giai đoạn một là giai đoạn tích tụ, trong thời gian này người đầu tư có tầm nhìn sẽ cảm nhận  được rằng tình hình thị trường tuy đang bị đè nén và bi quan nhưng sẽ đảo chiều, và họ sẵn  sàng mua tất cả các cổ phiếu được chào bán bởi các nhà đầu tư đang có tâm lý bi quan. Họ  sẽ tăng giá chào mua từ từ một khi khối lượng cổ phiếu chào bán giảm. Các báo cáo tài  chính vẫn phản ánh tình hình tồi tệ của thị trường trong giai đoạn này. Hoạt động thị trường ở  mức trung bình nhưng bắt đầu các đợt tăng giá đợt tăng giá nhỏ.  Giai đoạn hai là giai đoạn tăng giá mạnh và hoạt động thị trường cũng tăng lên do có các  thông tin tốt lành về tình hình kinh doanh và do có xu thế tăng thu nhập trên một cổ phiếu  của công ty, gây nên sự chú ý của công chúng. Chính là trong giai đoạn này các nhà phân  tích kỹ thuật thu hoạch được lợi nhuận cao nhất.  Giai đoạn ba là khi thị trường cháy bỏng ...

Tài liệu được xem nhiều: