Ông tú Đặng Huyền Thông (tên tự là Đặng Mậu Nghiệp) sống vào nửa cuối triều Mạc (thế kỷ XVI) ở làng Hùng Thắng, nay là xã Minh Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương (cách Hải Phòng khoảng 50km về phía tây). Cùng với vợ mình là Nguyễn Thị Đỉnh, ông được biết đến là một thợ làm gốm tại làng Hùng Thắng trong những năm 1580 - 1590, theo những ghi chép trên các tác phẩm của ông được tìm thấy cho đến nay. Có thể là trước và sau thời kỳ này ông cũng làm gốm, nhưng...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Một tác phẩm của Đặng Huyền Thông dưới triều Mạc
Một tác phẩm của Đặng Huyền Thông dưới triều Mạc
Ông tú Đặng Huyền Thông (tên tự là Đặng Mậu Nghiệp) sống vào nửa cuối triều
Mạc (thế kỷ XVI) ở làng Hùng Thắng, nay là xã Minh Tân, huyện Nam Sách, tỉnh
Hải Dương (cách Hải Phòng khoảng 50km về phía tây). Cùng với vợ mình là
Nguyễn Thị Đỉnh, ông được biết đến là một thợ làm gốm tại làng Hùng Thắng
trong những năm 1580 - 1590, theo những ghi chép trên các tác phẩm của ông
được tìm thấy cho đến nay. Có thể là trước và sau thời kỳ này ông cũng làm gốm,
nhưng chưa tác phẩm gốm nào được phát hiện. Trình độ học vấn của ông đã giúp
ông trở thành một người thợ gốm tài hoa.
Ông làm gốm theo đặt hàng của Phật tử và những quý tộc cung đình triều Mạc.
Sản phẩm của ông thường là chân đèn, lư hương và các bình hoa trong chùa, miếu.
Trong số đó, có một tháp gốm cao 13cm ở chùa Minh Phúc (Hải Phòng) cũng
được TS. Nguyễn Đình Chiến (Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Hà Nội) cho là tác
phẩm của Đặng Huyền Thông. Nghệ nhân gốm Đặng Huyền Thông không bao giờ
sản xuất gốm với mục đích xuất khẩu như các lò gốm khác ở Chu Đậu. Các tác
phẩm của ông không sản xuất với số lượng nhiều và hàng loạt mà thay vào đó là
những sản phẩm đơn chiếc hoặc trọn bộ.
Trên bàn thờ Phật, thông thường có một bộ ba gồm một bát hương và hai chân đèn
gọi là tam sự hay bộ tam sự. Do đó, những bộ chân đèn của Đặng Huyền Thông
được làm để đặt ở hai bên bát hương ở trên ban thờ. Theo con số thông kê của
Nguyễn Đình Chiến thì số lượng chân đèn tìm thấy được nhiều gấp ba lần lư
hương (Nguyễn Đình Chiến, Cẩm nang đồ sứ có minh văn, Bảo tàng Lịch sử Việt
Nam, 1999, tr. 146)
Trong bài này viết này, chúng tôi nói về một chiếc lư hương cao một cách khác
thường (53cm) và gần như nguyên vẹn (Ảnh 1 và ảnh 2), (Lư hương này đã được
Nguyễn Đình Chiến đề cập đến và mô tả khá chi tiết trong bài “Thêm những đồ
gốm có minh văn Việt Nam thế kỷ XVI”, Thông báo Khoa học, Bảo t àng Lịch sử
Việt Nam, Hà Nội, 1999.)
Trên bốn tai lư có khắc chìm bốn dòng chữ Hán như sau:
延 成 七 年 正月 (Diên Thành thất niên chính nguyệt: Tháng Giêng năm Diên
Thành thứ 7). (Đây là niên hiệu dưới triều vua Mạc Hậu Hợp, từ năm 1578 đến
1585. Diên Thành nghĩa là “kéo dài sự thành công”, là niên hiệu thứ 3 trong sáu
niên hiệu khác nhau mà vị vua này sử dụng trong thời gian trị vì. Tháng Giêng,
năm Diên Thành thứ 7 tương ứng với mùa xuân năm 1584.)
雄 勝 社 鄧 玄 通 + 造 (Chữ 造 này nằm trên một trong hai dải quai lớn, phía
dưới phần vẽ rồng) (Hùng Thắng xã Đặng Huyền Thông + tạo: Đặng Huyền
Thông, xã Hùng Thắng chế tạo).
士 娓 太 老 善 信 (Sãi vãi thái lão thiện tín: Ông sãi, bà vãi, các bậc cao niên,
thiện nam tín nữ).
大 小 等 信 施 (Đại tiểu đẳng tín thí: Người lớn, kẻ nhỏ cùng thành tâm dâng
cúng).
Ngoài ra còn có những ký tự khác lớn và nổi bật xung quanh lư hương: 佛 (Phật) -
降 (Giáng) - 福 (Phúc) và chữ 三 寶 (Tam bảo) xuất hiện ở chính giữa lư hương,
hai bên là hai con rồng uốn lượn. (三 寶 (Tam bảo) là “Ba ngôi báu”, ba cơ s ở
chính của Phật giáo: Phật, Pháp, Tăng, tức l à “bậc giác ngộ”, “giáo pháp của
bậc giác ngộ” và “những người bạn đồng học”. Người có niềm tin kiên cố nơi
Tam bảo được gọi là bậc Dự lưu (vào dòng). Người Phật tử biểu lộ sự tin tưởng
bằng cách quy y Tam bảo (Tam quy y). Trong m ười phép quán Tùy niệm, ba đối
tượng đầu tiên là Tam bảo. Ý nghĩa của Tam bảo được hiểu rộng hơn theo truyền
thống Đại thừa. Trong các buổi giảng dạy về Thiền, đặc biệt sau các ch ương trình
Tiếp tâm, quán Công án, các thiền sinh đ ược hướng dẫn vào lối nhìn Tam bảo của
Đại thừa).
Tuy nhiên, những thông tin trên lư hương không tiết lộ một chi tiết nào về xuất xứ
của lư hương.
Một lần nữa, tên của Đặng Huyền Thông nổi l ên như một nhà sản xuất đầy tự hào
cùng với những Phật tử dâng cúng vào tháng Giêng năm 1584. Tuy nhiên, chỉ có
tên ông được viết lên trên lư hương, tách rời khỏi chữ 造 (tạo), dường như muốn
nói rằng trong trường hợp này, ông là người đại diện cho những Phật tử cúng
dường được viết một cách chung chung: (Ông) sãi, (bà) vãi, các bậc cao niên,
thiện nam tín nữ... Không rõ đây là một dịp cúng dường đặc biệt nào: vào dịp đầu
xuân hay một sự kiện đặc biệt nào đó.
Lư hương này mang phong cách và những kỹ thuật điển hình của Đặng Huyền
Thông tương tự như chiếc lư hương ở Bảo tàng Lịch sử Việt Nam ở Hà Nội có
niên đại 1582, phủ men lam xám.
Trang trí bên ngoài lư hương trông như có bốn màu, mặc dù thực tế chỉ có ba màu:
lam xám, màu nâu ở chân và màu vàng đậm ở phía trên phần trang trí rồng. Các
chữ Hán to, viết theo lối thư pháp: 佛 (Phật) - 降 (Giáng) - 福 (Phúc) - 三 寶 (Tam
bảo) (Các ảnh 3, 4 và 5) được in nổi trên thân gốm, tuy nhiên lại không phủ men.
Hiệu quả đặc biệt này có được do sắc đỏ của xương gốm làm cho các Hán tự nổi
bật hẳn lên. Những ký tự chính được viền men lam xám xung quanh, do vậy, màu
đỏ của đất nung nổi lên tương phản như một thông điệp đập vào mắt của đồ thờ
trong bóng tối của một ngôi chùa. Truyền thống gốm này dựa trên những kỹ thuật
men lam và men màu nâu rỉ sắt truyền thống ở khu vực lò ChuĐậu. Đặng Huyền
Thông đã kế thừa truyền thống này nhưng ông đã tạo ra một loại gốm mới với sắc
lam xám của riêng mình.
Phong cách trang trí trên gốm của Đặng Huyền Thông th ường có những dải hoa,
trang trí hình học và những motif hài hoà tương tự những hoạ tiết hình chữ V, răng
cưa và giống như những motif trên đồ đồng Đông Sơn và các bình lọ khác. Thậm
chí phần bụng phình ra của lư hương còn trông giống như hình trống đồng úp
ngược.
Sáu con rồng ấn tượng được chạm nổi bên ngoài thân. Chúng không chỉ đơn thuần
là để trang trí. Trên một lư hương khác có niên đại vào cuối thế kỷ XVI, chúng ta
có thể đọc được dòng chữ: “Có hình rồng để làm triện....”.(Nguyễn Đình Chiến -
Phạm Quốc Quân, 2000 năm gốm Việt Nam, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, 2005,
tr.74-75). Điều đó chứng tỏ sự góp mặt của trang trí hình rồng trên gốm như một
dấu hiệu của những thông điệp có giá trị.
Trên ...