![Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ: Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa sông núi ta trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm](https://timtailieu.net/upload/document/136415/phan-tich-tu-tuong-cua-nhan-dan-qua-doan-tho-039-039-nhung-nguoi-vo-nho-chong-nhung-cuoc-doi-da-hoa-song-nui-ta-039-039-trong-dat-nuoc-cua-nguyen-khoa-136415.jpg)
Mức độ hài hòa giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam và chuẩn mực kế toán Quốc tế - Phạm Hoài Hương - Trường ĐH Kinh tế
Số trang: 10
Loại file: pdf
Dung lượng: 346.73 KB
Lượt xem: 12
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Tham khảo bài viết "Mức độ hài hòa giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam và chuẩn mực kế toán Quốc tế của Phạm Hoài Hương", bài viết này nhằm xác định mức độ hài hòa giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) và chuẩn mực kế toán quốc tế(IAS/IFRS), có liên quan đến 10 chuẩn mực kế toán chủ yếu có ảnh hưởng quan trọng đến báo cáo tài chính.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Mức độ hài hòa giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam và chuẩn mực kế toán Quốc tế - Phạm Hoài Hương - Trường ĐH Kinh tế TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010 MỨC ĐỘ HÀI HÒA GIỮA CHUẨN MỰC KẾ TOÁN VIỆT NAM VÀ CHUẨN MỰC KẾ TOÁN QUỐC TẾ DE-JURE CONVERGENCE BETWEEN VIETNAMESE AND INTERNATIONAL ACCOUNTING STANDARDS Phạm Hoài Hương Trường Đại học Kinh tế TÓM TẮT Bài viết này nhằm xác định mức độ hài hòa giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) và chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS/IFRS) liên quan đến 10 chuẩn mực kế toán chủ yếu có ảnh hưởng quan trọng đến báo cáo tài chính. Kết quả phân tích cho thấy mức độ hài hòa bình quân là 68%. Mức độ hài hòa về mặt đo lường (81,2%) cao hơn nhiều so với mức độ hài hòa về mặt khai báo thông tin (57%). Mức độ hài hòa của các chuẩn mực liên quan đến doanh thu và chi phí cao hơn các chuẩn mực liên quan đến tài sản. Như vậy, tồn tại một khoảng cách đáng kể giữa IAS/IFRS và VAS, đặc biệt là vấn đề khai báo thông tin. Nguyên nhân chủ yếu là VAS không có những điều chỉnh cần thiết để bắt kịp những thay đổi căn bản của IAS/IFRS; có sự khác nhau đáng kể về cơ sở đo lường giữa IAS/IFRS và VAS; và IAS/IFRS yêu cầu khai báo thông tin nhiều hơn VAS. ABSTRACT This study deals with the extent of de-jure (accounting rules) convergence of Vietnamese Accounting Standards (VAS) and International Accounting Standards (IAS/IFRS) on ten key accounting standards. Analytical results show that the overall level of de-jure convergence of VAS and IAS/IFRS for the ten key standards is lower than expected. The rate of overall de-jure convergence is 68%. This is broken down into its two components -- the measurement of de-jure convergence is at a higher rate (81.2%); whereas, the disclosure of de- jure convergence is at a far lower rate (57%). Further analyses reveal that revenue and expense standards have a higher overall level of de-jure convergence than asset standards. The main reason is that VAS shows divergence with their internationally-accepted equivalents, especially in respect to disclosure issues. 1. Xu hướng hội nhập với IAS/IFRS và sự cần thiết của nghiên cứu sự hài hòa giữa VAS và IAS/IFRS Sự toàn cầu hóa thị trường vốn tác động mạnh đến quá trình hội nhập quốc tế về chuẩn mực kế toán. Nhằm đẩy mạnh quá trình hội nhập kế toán, vào năm 2001 Ban chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB) được thành lập dựa trên nền tảng của Ủy ban chuẩn mực kế toán quốc tế IASC nhưng với một cơ cấu tổ chức chặt chẽ và độc lập hơn (Ball 2006; Deegan 2009). Mục tiêu của IASB là “hình thành một hệ thống chuẩn mực kế toán phục vụ cho lợi ích chung, chất lượng cao, dễ hiểu và có thể áp dụng trên toàn thế giới; và yêu cầu thông tin trên báo cáo tài chính phải rõ ràng, có thể so sánh nhằm giúp những người tham gia vào các thị trường vốn khác nhau trên thế giới cũng như các đối 155 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010 tượng sử dụng thông tin khác ra quyết định kinh tế” và “mang lại sự hội nhập giữa các hệ thống chuẩn mực quốc gia và IFRS” (IASB 2010, A 16). Từ năm 2005 nhiều nước trên thế giới đã sử dụng IAS/IFRS, mở đầu là khối liên minh Châu Âu, tiếp theo là Úc. Đến nay hơn 100 nước trên thế giới đã sử dụng IAS/IFRS (Deegan 2009). Tuy nhiên, một số nước hòa nhập với IAS/IFRS chậm hơn (Ball 2009). Đối với những nước này (chẳng hạn như Việt Nam), lợi ích của việc vận dụng IAS/IFRS vẫn còn chưa rõ ràng (Daske et al. 2008). Có nhiều ý kiến ủng hộ cho việc sử dụng IAS/IFRS. Jones và Belkaoui (2010) cho rằng việc sử dụng IAS/IFRS mang lại nhiều lợi ích. Thứ nhất, các nước sử dụng IAS/IFRS có thể tiết kiệm chi phí soạn thảo chuẩn mực và nhanh chóng hòa nhập vào chuẩn mực kế toán quốc tế được chấp nhận. Thứ hai, hệ thống chuẩn mực được chấp nhận trên tầm quốc tế cần thiết cho sự quốc tế hóa nền kinh tế thế giới với mức độ ngày càng gia tăng. Thứ ba, sự hội nhập về kế toán giúp cho các công ty huy động vốn trên thị trường quốc tế. Ball (2006) cho rằng sử dụng IAS/IFRS giúp cải thiện tính so sánh của thông tin báo cáo tài chính và do đó giảm chi phí và rủi ro sử dụng thông tin của các nhà đầu tư. Ngoài ra, sử dụng IAS/IFRS làm tăng tính rõ ràng của thông tin trên báo cáo tài chính, làm cho các nhà quản lý phải hành động vì lợi ích của cổ đông, và bảo vệ lợi ích của người cho vay. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng phương pháp xây dựng chuẩn mực kế toán của IASB về cơ bản là theo mô hình Anglo-America, do đó có thể không phù hợp với các nước đang phát triển vì có sự khác biệt lớn về văn hóa và môi trường kinh tế giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển (Prather-Kinsey 2006). Ding, Jeanjean và Stolowy (2005) chứng minh rằng yếu tố văn hóa có ảnh hưởng đáng kể đến sự khác biệt giữa chuẩn mực kế toán quốc gia và quốc tế. Theo Carmona and Trombetta (2008), IAS/IFRS dựa trên nguyên tắc (principle-based IAS/IFRS) có tính linh hoạt cao nên khó vận dụng vào hoàn cảnh các nước đang phát triển. Chẳng hạn như, các nước đang phát triển khó có thể áp dụng phương pháp dựa trên thị trường (market-base) để ước tính giá trị hợp lý do thiếu một thị trường phát triển. Nhiều nước đang phát triển có xu hướng tiếp cận với IAS/IFRS theo những cách khác nhau mặc dù có nhiều ý kiến lo ngại về tính thích hợp của IAS/IFRS đối với các nước này. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng chung đó. Từ năm 2001 cho đến nay Việt Nam đã ban hành 26 VAS về cơ bản dựa trên các IAS/IFRS tương đương đã được ban hành đến năm 2003 (Point of view 2009). Đây là một bước ngoặc quan trọng trong quá trình cải cách hệ thống kế toán Việt Nam. Tuy nhiên, tại thời điểm hiện tại, VAS đạt được bao nhiêu phần trăm mức độ hài hòa v ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Mức độ hài hòa giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam và chuẩn mực kế toán Quốc tế - Phạm Hoài Hương - Trường ĐH Kinh tế TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010 MỨC ĐỘ HÀI HÒA GIỮA CHUẨN MỰC KẾ TOÁN VIỆT NAM VÀ CHUẨN MỰC KẾ TOÁN QUỐC TẾ DE-JURE CONVERGENCE BETWEEN VIETNAMESE AND INTERNATIONAL ACCOUNTING STANDARDS Phạm Hoài Hương Trường Đại học Kinh tế TÓM TẮT Bài viết này nhằm xác định mức độ hài hòa giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) và chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS/IFRS) liên quan đến 10 chuẩn mực kế toán chủ yếu có ảnh hưởng quan trọng đến báo cáo tài chính. Kết quả phân tích cho thấy mức độ hài hòa bình quân là 68%. Mức độ hài hòa về mặt đo lường (81,2%) cao hơn nhiều so với mức độ hài hòa về mặt khai báo thông tin (57%). Mức độ hài hòa của các chuẩn mực liên quan đến doanh thu và chi phí cao hơn các chuẩn mực liên quan đến tài sản. Như vậy, tồn tại một khoảng cách đáng kể giữa IAS/IFRS và VAS, đặc biệt là vấn đề khai báo thông tin. Nguyên nhân chủ yếu là VAS không có những điều chỉnh cần thiết để bắt kịp những thay đổi căn bản của IAS/IFRS; có sự khác nhau đáng kể về cơ sở đo lường giữa IAS/IFRS và VAS; và IAS/IFRS yêu cầu khai báo thông tin nhiều hơn VAS. ABSTRACT This study deals with the extent of de-jure (accounting rules) convergence of Vietnamese Accounting Standards (VAS) and International Accounting Standards (IAS/IFRS) on ten key accounting standards. Analytical results show that the overall level of de-jure convergence of VAS and IAS/IFRS for the ten key standards is lower than expected. The rate of overall de-jure convergence is 68%. This is broken down into its two components -- the measurement of de-jure convergence is at a higher rate (81.2%); whereas, the disclosure of de- jure convergence is at a far lower rate (57%). Further analyses reveal that revenue and expense standards have a higher overall level of de-jure convergence than asset standards. The main reason is that VAS shows divergence with their internationally-accepted equivalents, especially in respect to disclosure issues. 1. Xu hướng hội nhập với IAS/IFRS và sự cần thiết của nghiên cứu sự hài hòa giữa VAS và IAS/IFRS Sự toàn cầu hóa thị trường vốn tác động mạnh đến quá trình hội nhập quốc tế về chuẩn mực kế toán. Nhằm đẩy mạnh quá trình hội nhập kế toán, vào năm 2001 Ban chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB) được thành lập dựa trên nền tảng của Ủy ban chuẩn mực kế toán quốc tế IASC nhưng với một cơ cấu tổ chức chặt chẽ và độc lập hơn (Ball 2006; Deegan 2009). Mục tiêu của IASB là “hình thành một hệ thống chuẩn mực kế toán phục vụ cho lợi ích chung, chất lượng cao, dễ hiểu và có thể áp dụng trên toàn thế giới; và yêu cầu thông tin trên báo cáo tài chính phải rõ ràng, có thể so sánh nhằm giúp những người tham gia vào các thị trường vốn khác nhau trên thế giới cũng như các đối 155 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010 tượng sử dụng thông tin khác ra quyết định kinh tế” và “mang lại sự hội nhập giữa các hệ thống chuẩn mực quốc gia và IFRS” (IASB 2010, A 16). Từ năm 2005 nhiều nước trên thế giới đã sử dụng IAS/IFRS, mở đầu là khối liên minh Châu Âu, tiếp theo là Úc. Đến nay hơn 100 nước trên thế giới đã sử dụng IAS/IFRS (Deegan 2009). Tuy nhiên, một số nước hòa nhập với IAS/IFRS chậm hơn (Ball 2009). Đối với những nước này (chẳng hạn như Việt Nam), lợi ích của việc vận dụng IAS/IFRS vẫn còn chưa rõ ràng (Daske et al. 2008). Có nhiều ý kiến ủng hộ cho việc sử dụng IAS/IFRS. Jones và Belkaoui (2010) cho rằng việc sử dụng IAS/IFRS mang lại nhiều lợi ích. Thứ nhất, các nước sử dụng IAS/IFRS có thể tiết kiệm chi phí soạn thảo chuẩn mực và nhanh chóng hòa nhập vào chuẩn mực kế toán quốc tế được chấp nhận. Thứ hai, hệ thống chuẩn mực được chấp nhận trên tầm quốc tế cần thiết cho sự quốc tế hóa nền kinh tế thế giới với mức độ ngày càng gia tăng. Thứ ba, sự hội nhập về kế toán giúp cho các công ty huy động vốn trên thị trường quốc tế. Ball (2006) cho rằng sử dụng IAS/IFRS giúp cải thiện tính so sánh của thông tin báo cáo tài chính và do đó giảm chi phí và rủi ro sử dụng thông tin của các nhà đầu tư. Ngoài ra, sử dụng IAS/IFRS làm tăng tính rõ ràng của thông tin trên báo cáo tài chính, làm cho các nhà quản lý phải hành động vì lợi ích của cổ đông, và bảo vệ lợi ích của người cho vay. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng phương pháp xây dựng chuẩn mực kế toán của IASB về cơ bản là theo mô hình Anglo-America, do đó có thể không phù hợp với các nước đang phát triển vì có sự khác biệt lớn về văn hóa và môi trường kinh tế giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển (Prather-Kinsey 2006). Ding, Jeanjean và Stolowy (2005) chứng minh rằng yếu tố văn hóa có ảnh hưởng đáng kể đến sự khác biệt giữa chuẩn mực kế toán quốc gia và quốc tế. Theo Carmona and Trombetta (2008), IAS/IFRS dựa trên nguyên tắc (principle-based IAS/IFRS) có tính linh hoạt cao nên khó vận dụng vào hoàn cảnh các nước đang phát triển. Chẳng hạn như, các nước đang phát triển khó có thể áp dụng phương pháp dựa trên thị trường (market-base) để ước tính giá trị hợp lý do thiếu một thị trường phát triển. Nhiều nước đang phát triển có xu hướng tiếp cận với IAS/IFRS theo những cách khác nhau mặc dù có nhiều ý kiến lo ngại về tính thích hợp của IAS/IFRS đối với các nước này. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng chung đó. Từ năm 2001 cho đến nay Việt Nam đã ban hành 26 VAS về cơ bản dựa trên các IAS/IFRS tương đương đã được ban hành đến năm 2003 (Point of view 2009). Đây là một bước ngoặc quan trọng trong quá trình cải cách hệ thống kế toán Việt Nam. Tuy nhiên, tại thời điểm hiện tại, VAS đạt được bao nhiêu phần trăm mức độ hài hòa v ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Chuẩn mực kế toán Việt Nam Chuẩn mực kế toán Quốc tế Chuẩn mực kế toán Hệ thống kế toán Tài chính kế toán Kế toán doanh nghiệpTài liệu liên quan:
-
3 trang 312 0 0
-
THÔNG TƯ về sửa đổi, bổ sung Chế độ kế toán Doanh nghiệp
22 trang 304 0 0 -
115 trang 270 0 0
-
Kế toán cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp
52 trang 263 0 0 -
Bài giảng HỆ THỐNG THÔNG TIN KẾ TOÁN - Chương 2
31 trang 235 0 0 -
Giáo trình Quản trị doanh nghiệp (Nghề: Kế toán doanh nghiệp) - CĐ Cơ Giới Ninh Bình
156 trang 218 0 0 -
Bài giảng Chuẩn mực kế toán công quốc tế - Chương 1: Khái quát về chuẩn mực kế toán công quốc tế
25 trang 207 0 0 -
92 trang 194 5 0
-
Các bước cơ bản trình bày báo cáo tài chính hợp nhất theo chuẩn mực kế toán quốc tế
6 trang 180 0 0 -
QUYẾT ĐỊNH Về việc ban hành và công bố bốn (04) chuẩn mực kế toán Việt Nam (đợt 5)
61 trang 176 0 0