Ngày nay nói đến mỹ thuật mọi người thường chí nghĩ đến hội hoạ và điêu khắc. Với mỹ thuật cổ Việt Nam thì hội hoạ là tranh nói chung mà cơ bản là mảng đồ hoạ, còn điêu khắc thì gồm cả tượng tròn và chạm khắc trang trí các loại. Chỉ từ giai đoạn cận - hiện đại, trong quá trình tiếp xúc với văn hoá phương Tây và sự phát triển chuyên sâu của khoa học, kiến trúc đã tách ra để mỹ thuật tập trung vào tranh và tượng. Với quan niệm mở rộng, lịch...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Mỹ thuật thời pháp thuộc (1885 - 1945)
Mỹ thuật thời pháp thuộc (1885 - 1945)
Ngày nay nói đến mỹ thuật mọi người thường chí nghĩ đến hội hoạ và
điêu khắc. Với mỹ thuật cổ Việt Nam thì hội hoạ là tranh nói chung mà
cơ bản là mảng đồ hoạ, còn điêu khắc thì gồm cả tượng tròn và chạm
khắc trang trí các loại. Chỉ từ giai đoạn cận - hiện đại, trong quá trình
tiếp xúc với văn hoá phương Tây và sự phát triển chuyên sâu của khoa
học, kiến trúc đã tách ra để mỹ thuật tập trung vào tranh và tượng.
Với quan niệm mở rộng, lịch sử mỹ thuật Việt Nam được khởi nguyên
từ thời tiền sử và sơ sở, luôn bám sát tiến trình lịch sử dựng nước và
giữ nước của dân tộc ta. Với vị trí địa lý thuận lợi Việt Nam có được sự
giao lưu rộng rãi để tiếp tục nhận tinh hoa văn hoá thế giới mà hoàn
thiện mình và toả sáng.
Sống giữa môi trường nhiệt đới, thiên nhiên hào phóng ban phát ân huệ
vừa nghiệt ngã, thử thách, dân tộc ta đã hợp sức lại để tạo thế ứng xử
linh hoạt: lợi dụng, cải tạo và đấu tranh nhằm khai thác và chế ngự hiệu
quả nhất.
Ngoài ra nạn ngoại xâm luôn thường trực, dân tộc ta giữa những thời
gian dựng nước ngắn ngủi, luôn phải tiến hành chiến tranh giải phóng
và kháng chiến trường kỳ, vinh quang nhiều nhưng phải hy sinh lớn về
cả xương máu và của cải. Trong tình hình ấy, dân tộc ta phải bám lấy
thực tại và vượt lên để rồi biểu hiện lại cuộc sống của mình bằng nghệ
thuật mà rõ nhất là ở mỹ thuật với sự cao đẹp của tâm hồn hướng thiện.
Trong mỗi giai đoạn, bên cái chung còn có nhiều cái riêng do điều kiện
cụ thể của xã hội quy định: các nhà nước quân chủ tự chủ, nhưng mỗi
vương triều có một cách quản lý đất nước khác. Do đó cũng tạo nên
diện mạo mỹ thuật khác ở từng thời kỳ.
Chẳng hạn Mỹ thuật thời Pháp thuộc (1885 - 1945 ) sau khi nhà
Nguyễn được thành lập thì đúng lúc ấy Chủ nghĩa tư bản phương Tây
đang tích cực tìm kiếm thị trường sang phương Đông. Vừa lúc bôn ba
địch khôi phục nghiệp chúa thì đã bị khởi nghĩa nông dân Tây Sơn quật
đổ, Bá Đa Lộc làm đại diện đã ký với Pháp bản điều ước. Do Pháp
đang gặp nhiều khó khăn nên điều ước không được thi hành. Sau khi
thắng Tây Sơn, Gia Long đã có những ưu đãi nhất định với người Pháp
và các giáo sỹ.
Năm 1817 Pháp đòi thi hành điều ước Bá Đa Lộc ký năm 1787 nhượng
Đà Nẵng và Côn đảo cho chúng. Sau khi Minh mạng lên ngôi bèn cấm
đoạt Thiên chúa và từ chối buôn bán với Pháp tạo ngăn cách với
phương Tây. Do những biến động ở Trung Quốc MInh mạng đã cử tàu
đi Pháp và Anh để giao dịch buôn bán và tìm hiểu nhưng đã bị Anh và
Pháp từ chối. Vả lại xã hội Việt Nam chưa có đủ nhân tố bên trong để
đón nhận tiến bộ kỹ thuật và văn minh của phương Tây để cải cách đất
nước. Ngay cả khi có những điều trần của một số người Việt cấp tiến,
dù tự Đức có để mắt tới vẫn bị triều đình bác bỏ.
Năm 1858 chúng chính thức mở màn tấn công Đà Nẵng.
Năm 1859 tiếp tục chuyển vào chiếm Gia Địh.
Năm 1862 triều đình phải ký nhượng 3 tỉnh miền Đông Nam Bộ cho
Pháp.
Năm 1867 3 tỉnh miền Tây Nam Bộ mất nốt vào tay giặc.
Năm 1873 Pháp mở rộng địa bàn xâm lược ra Bắc.
Năm 1882 Hà Nội bị đánh chiếm.
Năm 1885 Pháp chiếm kinh đô Huế hoàn thành cuộc xâm lược Việt
Nam. Triều đình Huế đầu hàng một số sỹ phu đã đi với nhân dân nổi
dật, đấu tranh chống phong kiến sang đấu tranh giải phóng dân tộc.
Đến cách mạng tháng tám năm 1945 lật đổ ách thống trị thực dân Pháp
kết thúc 60 năm bù nhìn (1885 - 1845) của triều Nguyễn.
Trong 25 năm mở rộng và 60 năm thống trị Pháp chi phối Kinh tế -
Chính trị - Văn hoá xã hội và đã có một số nơi chịu ảnh hưởng trực tiếp
của phương Tây, song ở các làng quê mỹ thuật truyền thống vẫn giữ
được bản sắc phát triển theo con đường cũ.
Bước tiến mới về mỹ nghệ - mỹ thuật ở buổi giao thời về đào tạo mới
mỹ nghệ:
Pháp đã nhận ra bàn tay vàng do đó họ liền tổ chức triển lãm mà gọi
là cuộc đ ấu xảo như các cuộc triển lãm Hà Nội (1887), Quốc tế
(1888 - 1889), Ly ông (1885), Paris (1990)… Từ những kết quả đã đạt
được qua các cuộc triển lãm chính quyền thuộc địa mở ra một số
trường mỹ nghệ ở Nam Kỳ:
- Năm 1901 lập trường mỹ nghệ Thủ Dầu một với bốn bộ môn: gỗ,
điêu khắc, khảm xà cừ, đúc đồng.
- Năm 1907 lạp trường mỹ nghệ Biên Hoà đào tạo về gốm, sứ và đúc
đồng.
- Năm 1913 lập trường nghệ thuật bản xứ Gia Định sau đó thay đổi tên
liên tục, nó luôn phản ánh mục tiêu đào tạo không ổn định, trường đào
tạo giáo viên các công việc về hình hoạ, chạm khắc, đồ hoạ…
- Năm 1920 mở rộng địa bàn ra Bắc, lập trường nghệ thuật thực hành ở
Hà Nội, dạng đúc đồng, làm đồ mộc, chạm bạc, làm ren…
Những cuộc đấu xảo tổ chức tại Pháp đã giúp cho các nghệ nhân Việt
Nam học hỏi nhau, vừa được tiép xúc với công chúng và nghệ thuật
phương Tây. Chẳng hạn tại cuộc triển lãm Macxây năm 1906 mỗi kỳ
và mỗi nước thuộc địa Đông Dương đều có gian hàng đặc trưng cho
truyền thống văn hoá của mình. Đã có hai nghệ nhân được thưởng Huy
chương đồng như Nguyễn Hữu Chi, Nam Quát những sản phẩm họ làm
ra chủ yếu là đồ chạm mộc, tủ chè, sập ngủ, thêu trên lụa Lyông của
Pháp… và đã được dân chún ...