Danh mục

N HÓA VÀ VĂN MINH

Số trang: 13      Loại file: pdf      Dung lượng: 189.19 KB      Lượt xem: 13      Lượt tải: 0    
Jamona

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 2,000 VND Tải xuống file đầy đủ (13 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nếu văn hóa xác định con người ở thước đo sự phát triển của nó, ở các phương thức tự biểu hiện trong các dạng hoạt động khác nhau, thì khái niệm văn minh xác định sự tồn tại xã hội của bản thân văn hóa. Nền văn minh của thế giới hiện đại không phải là điểm xuất phát, mà là kết quả của quá trình tiến hóa phức tạp, lâu dài của những nền văn minh địa phương riêng lẻ đầu tiên, trong đó có những nền văn minh đã bị hủy hoại, bị tiêu diệt một...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
N HÓA VÀ VĂN MINH N HÓA VÀ VĂN MINH N.V.SISOVA Hoàng Vinh (dịch) Nếu văn hóa xác định con người ở thước đo sự phát triển của nó, ở các phương thức tự biểu hiện trong các dạng hoạt động khác nhau, thì khái niệm văn minh xác định sự tồn tại xã hội của bản thân văn hóa. Nền văn minh của thế giới hiện đại không phải là điểm xuất phát, mà là kết quả của quá trình tiến hóa phức tạp, lâu dài của những nền văn minh địa phương riêng lẻ đầu tiên, trong đó có những nền văn minh đã bị hủy hoại, bị tiêu diệt một cách thảm hại.1. Cặp thuật ngữ văn hóa và văn minh liên quan đến một trong những khái niệ mđa nghĩa nhất với nhiều cách giải thích khác nhau. Thoạt đầu từ văn hóa xuất hiệntrong tiếng La tinh, có nghĩa là vun trồng đất đai, lao động nông nghiệp. Về sau, từnày có một nghĩa bao quát hơn. Nhà hùng biện La Mã, đồng thời là nhà triết họcM.Xixêron trong cuộc trao đổi với Tutxculan (năm 45 trước công nguyên) đã gắnvăn hóa với sự tác động đến hoạt động trí tuệ của con người, với công việc củanhà triết học. Ông cho rằng: triết học là văn hóa (sự vun trồng) tâm hồn. Tiếp đó,người ta bắt đầu hiểu từ văn hóa có nghĩa là sự khai trí, giáo dục và trình độ họcvấn của con người; theo nghĩa này từ văn hóa thâm nhập vào hầu hết ngôn ngữ cácnước ở châu Âu, trong đó có nước Nga. Trong tác phẩm Văn hóa, sự hình thành,biến đổi khái niệm, sự thay thế khái niệm từ M.Xixêron đến Hécđerơ, I.Niđécmanđã chỉ ra rằng, nghĩa của từ này đã thay đổi. Bắt đầu từ thế kỷ XVII, trong tưtưởng Khai sáng ở nước Đức (X.Puphenđoócphơ) khái niệm văn hóa đã được sửdụng với nghĩa rộng rãi hơn - đó là tất cả những gì do con người tạo ra, tồn tại bêncạnh thiên nhiên trinh nguyên, chưa có sự động chạm của con người.Vào các thế kỷ XVII-XVIII thuật ngữ văn hóa mới mang ý nghĩa của một kháiniệm khoa học. Trong khoa học thời cận đại đã ra đời một quan niệm cho rằng:giữa thiên nhiên và nhân cách tồn tại một thế giới đặc biệt của hoạt động người,thế giới đó được gọi là văn hóa.Ngày nay, khoa học về văn hóa đã hình thành nên hơn 300 định nghĩa, điều đóchứng tỏ rằng có nhiều cách tiếp cận khác nhau trong nghiên cứu văn hóa.Từ cuối thế kỷ XIX, trường phái nhân học văn hóa của Hoa Kỳ (Franz Boas,A.Kroeber, M.Mead…) đã có ảnh hưởng rất lớn. Trong trường phái này vấn đềđược đặt lên hàng đầu là động học phát triển của văn hóa và các cơ chế truyền đạtvăn hóa đi qua các thế hệ.Trong khuôn khổ của nhân học văn hóa Hoa Kỳ đã sản sinh ra khái niệm phươngpháp giao lưu tiếp biến như là quá trình tiếp xúc giữa các nền văn hóa, mà kết quảcủa những cuộc tiếp xúc này đã làm biến đổi các hệ thuyết (paradigms) văn hóa(F.Herskovits, J.Menvin, Ô.ốttenbécgơ). Theo phương pháp này, sự khác biệt vănhóa giữa các cộng đồng tộc người sẽ được san bằng qua những cuộc tiếp xúc liêntục và trực tiếp.Vào đầu thế kỷ XX, lý thuyết nhân học xã hội (trường phái chức năng) của cácnhà dân tộc học và xã hội học người Anh là B.Malinowski và Radeliffe Brown đềra khái niệm cấu trúc xã hội. Malinốpxki đã phân tích ý nghĩa của các thiết chế xãhội và ảnh hưởng của chúng đối với sự kiểm tra và điều tiết hành vi con người.Nhờ sự hỗ trợ của phương pháp chức năng, ông đã miêu tả những hình thái khácnhau của sự tương tác xã hội và đã sử dụng khái niệm văn hóa như là một tổng thểthiết yếu của các hệ thống xã hội tương liên. Nguyên lý chức năng luận cho phépxem xét văn hóa như một hệ thống chỉnh thể nội tại, được tạo ra từ tổ hợp củanhững yếu tố cần thiết, gắn liền bằng các mối quan hệ phụ thuộc vào nhau về mặtchức năng. Mỗi nền văn hóa khi trở thành bậc thang của trình độ phát triển vănhóa chung, nó sẽ không còn tương quan với các nền văn hóa khác nữa.Thuyết chức năng đã góp phần làm giàu cho ngành dân tộc học bằng tri thức vềcác nền văn hóa của các dân tộc cổ đại. Nhưng hạn chế của lý thuyết này biểu hiệnở chỗ, khi phủ nhận sự tiến hóa về xã hội và văn hóa, nó đã làm mất đi tiêu chuẩnthống nhất của sự phát triển văn hóa trong toàn bộ lịch sử nhân loại. Tiếp đó, xuấthiện khái niệm về bản sắc văn hóa của những dân tộc khác nhau, thừa nhận tínhbất tương hợp giữa các nền văn hóa của các dân tộc ấy, người ta gọi đó là thuyếttương đối văn hóa.Dựa trên cơ sở khái quát những kết quả nghiên cứu của nhân học văn hóa và xãhội, người ta đề xuất cách tiếp cận giá trị học - tức tiếp cận giá trị để hiểu văn hóa.Việc sử dụng rộng rãi khái niệm văn hóa như là tổng thể các giá trị vật chất và tinhthần bắt đầu từ công trình của V.Vinđenbanđơ. Văn hóa được xem như là hệ thốngnhững phương thức hoạt động theo chuẩn mực, những thủ pháp hoạt động mongđạt tới các kiểu mẫu điển hình. Các đại biểu nổi tiếng của lưu phái này là:G.Rikkert, G.Côghen, Ph.Bơrentanô, M.Selerơ và V.Vunđơ… Trong các ngànhtriết học và văn hóa học của Nga có các đại biểu: G.Karpov, A.Zvorkin,G.Phransev… Ưu ...

Tài liệu được xem nhiều: