Theo thời gian diễn biến, nấc được chia thành các thể cấp tính (diễn biến dưới 48 giờ), mạn tính kéo dài (từ 48 giờ đến 2 tháng) và dai dẳng (trên 2 tháng). Nấc mạn tính thường gây ra do các tổn thương bệnh lý khác. Rất nhiều loại thuốc có khả năng gây nấc, gặp nhiều nhất là nhóm corticosteriod (prednisolone), benzodiazepine (diazepam), thuốc điều trị parkinson, các hoá chất chống ung thư, kháng sinh (như nhóm macrolid, fluoroquinolon), thuốc trợ tim (digoxin) và một số dẫn xuất thuốc phiện (như hydrocodone), cần lưu ý là các...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nấc kéo dài, làm sao hết? Nấc kéo dài, làm sao hết? Cơ chế gây nấc. Theo thời gian diễn biến, nấc được chia thành các thể cấp tính (diễnbiến dưới 48 giờ), mạn tính kéo dài (từ 48 giờ đến 2 tháng) và dai dẳng (trên 2tháng). Nấc mạn tính thường gây ra do các tổn thương bệnh lý khác. Rất nhiều loại thuốc có khả năng gây nấc, gặp nhiều nhất là nhómcorticosteriod (prednisolone), benzodiazepine (diazepam), thuốc điều trịparkinson, các hoá chất chống ung thư, kháng sinh (như nhóm macrolid,fluoroquinolon), thuốc trợ tim (digoxin) và một số dẫn xuất thuốc phiện (nhưhydrocodone), cần lưu ý là các thuốc chữa nấc cũng có thể gây nấc. Các nguyênnhân gây nấc khác có thể gặp là do tổn thương thần kinh trung ương (chấn thươngsọ não, viêm não), yếu tố tâm lí (lo lắng, sang chấn tâm lí), sau phẫu thuật bụng,nhồi máu cơ tim, một số trường hợp nấc không xác định được căn nguyên. Mặc dù nấc không gây nguy hiểm đến tính mạng nhưng có thể đem lại khánhiều phiền toái cho người bệnh. Nấc sau mổ có thể gây đau đớn, làm nứt vết mổvà giảm sút thể lực của người bệnh. Những trường hợp nấc kéo dài thường làmcho người bệnh bị mệt mỏi, mất ngủ, mất nước và kiềm hô hấp do tăng thông khí. Điều trị nấc: điều trị nguyên nhân là biện pháp quan trọng nhất, trước tiêncần xác định tất cả các tác nhân gây nấc hoặc làm nặng tình trạng nấc để loại bỏhoặc sửa chữa nếu có thể. Trong những trường hợp không xác định được hoặckhông thể điều trị được nguyên nhân, có thể cân nhắc sử dụng các phương phápđiều trị triệu chứng. Điều trị bằng thuốc: rất nhiều loại thuốc có thể giúp giảm triệu chứng nấc theo những cơ chếkhác nhau. Baclofen - một chất có cấu trúc giống GABA có tác dụng hoạt hoá mộtchất dẫn truyền thần kinh ức chế, từ đó ngăn chặn được các kích thích nấc. Đây làmột trong những thuốc hiệu quả nhất trong điều trị các trường hợp nấc mạn tínhdo nhiều nguyên nhân khác nhau như các bệnh lý ở dạ dày - thực quản, tổn thươngthân não hoặc nấc vô căn, kể cả những trường hợp không đáp ứng với nhiều loạithuốc khác. Thuốc có thể gây buồn ngủ, mất ngủ, yếu cơ, lú lẫn... Các loại thuốcliệt thần như chlorpromazine, promethazine, prochloperazine và haloperidol đềucó tác dụng giảm nấc thông qua việc ức chế cạnh tranh với dopamin ở vùng dướiđồi. Tác dụng phụ thường gặp nhất của các thuốc này là gây buồn ngủ, khô miệngvà dấu hiệu ngoại tháp... Do nhiều tác dụng phụ nên hiện nay nhóm thuốc này ítđược sử dụng trong điều trị giảm nấc. Metoclopramide - một thuốc thường dùngđể chống nôn cũng có tác dụng giảm nấc thông qua việc làm giảm cường độ cobóp của thực quản. Các thuốc ức chế bơm proton (như omeprazole) có thể giảmtriệu chứng nấc thông qua việc giảm tiết dịch vị và giảm tình trạng đầy trướng hơicủa dạ dày. Nifedipine - thuốc thuộc nhóm chẹn kênh canxi thường dùng với mụcđích hạ huyết áp cũng có thể giúp giảm nấc thông qua việc đảo ngược quá trìnhkhử cực bất thường trong cung phản xạ nấc. Trong khi đó, sertraline tác dụngchống nấc thông qua các receptor 5HT4 ở ống tiêu hoá, gây giảm các nhu động bấtthường ở thực quản, dạ dày và cơ hoành hoặc qua các receptor 5HT1A và 5HT2gây ức chế cung phản xạ nấc. Nhiều loại thuốc khác cũng có tác dụng hỗ trợ trongviệc giảm nấc ở một số trường hợp như nefopam, lidocaine tiêm tĩnh mạch,amitriptyline, amantadine, acid valproic, gabapentin, clonazepam, cisapride, mộtsố thuốc gây mê và chống co giật (như phenytoin). Trong những trường hợp nấcdai dẳng không đáp ứng với một loại thuốc, việc phối hợp đồng thời nhiều thuốc làcần thiết. Phác đồ phối hợp thường được sử dụng và đã chứng minh được hiệu quảlà cisapride + omeprazole + baclofen, có thể dùng thêm gabapentin. Điều trị không dùng thuốc: Một số nghiệm pháp mang tính cơ học có thể được thử nghiệm trước khiquyết định dùng thuốc như hít sâu và nín thở, kích thích vào vùng hầu họng,ngoáy mũi gây hắt hơi, ép mạnh vào vùng cơ hoành bằng tay, xoa bóp vùng hậumôn, uống nước thật chậm và bịt mũi trong khi nuốt, uống một cốc nước lạnh vàbịt tai trong khi uống, uống một cốc nước ấm có pha một thìa mật ong, nuốtnhanh một thìa đường hoặc mật ong... Riêng ở trẻ nhỏ có thể điều trị nấc bằngcách gây động tác mút ở trẻ (cho trẻ bú mẹ, bú bình hoặc núm vú giả...). Mộtphương pháp khác có thể được sử dụng là hít thở vài lần vào một túi kín (thở lạikhí giàu carbonic), đây là phương pháp khá mạo hiểm vì có thể gây tăng nồng độcarbonic trong máu dẫn đến toan máu và cần được thực hiện dưới sự giám sát củangười khác và phải có ôxy dự phòng. Nói chung, hiệu quả của các biện pháp cơhọc này thường chỉ mang tính tạm thời. Một số phương pháp phức tạp hơn có thểđược thử nghiệm như châm cứu, gây tê ngoài màng cứng ở cột sống cổ, phong bếthần kinh hoành... Phẫu thuật cắt dây thần kinh hoành là biện pháp cuối cùng, chỉdùng trong những trường hợp nấc n ...