Kín đáo và bền bỉ, họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm đã lặng lẽ thâm nhập vào thế giới nghệ thuật truyền thống. Lúc đầu là cái nhìn trẻ thơ trước những trò vui ngày tết: Con giống tò he, đánh vật, chọi gà, cảnh làng quê đầm ấm. Những kiến thức tuổi thơ bỗng nhiên biến khỏi ông khi ông rời gia đình - thành phố Vinh bụi bặm huyên náo những chuyến tàu
.xuôi ngược để đến với trường mỹ thuật Đông Dương khóa 15 (19411946) tại Hà Nội. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
NĂM MÙA CỦA NGUYỄN TƯ NGHIÊM
NĂM MÙA CỦA NGUYỄN TƯ
NGHIÊM
NGUYỄN TƯ NGHIÊM-Tết Canh dần-bột
màu trên giấy, 75x100
Kín đáo và bền bỉ, họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm đã lặng lẽ thâm nhập vào
thế giới nghệ thuật truyền thống. Lúc đầu là cái nhìn trẻ thơ trước
những trò vui ngày tết: Con giống tò he, đánh vật, chọi gà, cảnh làng
quê đầm ấm. Những kiến thức tuổi thơ bỗng nhiên biến khỏi ông khi
ông rời gia đình - thành phố Vinh bụi bặm huyên náo những chuyến tàu
xuôi ngược để đến với trường mỹ thuật Đông Dương khóa 15 (1941-
1946) tại Hà Nội. Những biến động xã hội năm 1945 cùng các bạn Bùi
Xuân Phái , Dương Bích Liên, Phan Kế An, Trần Duy, Mai Văn Nam
đời sinh viên của ông lại gắn liền với làng quê Đường Lâm - Mông Phụ
(Sơn Tây) và lại cùng nhau đến Việt Bắc, cái nôi của cách mạng.
Trên con đường tiếp nhận thẩm mỹ đầu tiên ông đã nhận ra được vẻ
đẹp dân dã rút tỉa từ điêu khắc dân gian đình làng. Những tranh vẽ đầu
tiên của ông vẽ người nông dân, em bé nghèo chưa hứa hẹn một điều gì
cho tương lai và một điều tình cờ ông lại tìm được một con đường đi
đến nghệ thuật qua năm tháng ở Đường Lâm - Mông Phụ - Nền văn
hóa xứ Đoài có sức hấp dẫn đặc biệt chàng trai xứ Nghệ. Bức vẽ đầu
tiên Điệu múa cổ ra đời năm 1947 được ông ghi nhận trong ký ức dai
dẳng đến tận cuối đời.
Hiện thục xã hội và kháng chiến đã đưa ông về với đời sống hiện đại
với cái nhìn của một nghệ sĩ công dân trước thời cuộc để rồi những tác
phẩm Dân quân Phù Lưu (Khắc gỗ) (1948), Tát nước chống hạn (Bột
màu) (1956), Nông dân đấu tranh chống thuế (Sơn mài) (1957), Đêm
giao thừa ở Hồ Gươm (sơn mài 1958) đã đưa ông vào đội ngũ những
họa sĩ ý thức sáng tác nhất quán những năm 60. Một thời gian dài cho
đến hôm nay Đêm giao thừa ở Hồ Gươm là một thói quen của người
Hà Nội trong đêm trừ tịch 30 Tết. Dòng người đi trong niềm hân hoan,
hạnh phúc, rực rỡ ánh sáng lung linh từ những ngọn cây giăng mắc.
Tác phẩm Đêm giao thừa của Nguyễn Tư Nghiêm nổi tiếng bởi ông đã
tìm được một hình ảnh đẹp đẽ thiêng liêng nhất của Hà Nội xưa cũ,
thắm đượm tình người, tình đời cởi mở.
Có lẽ sau khi đã hết tâm thực hiện trong lối vẽ Nguyễn Tư Nghiêm lại
bước tiếp cuộc hành trình nhẫn nại về cội nguồn nghệ thuật dân tộc với
nỗi niềm riêng tư như chỉ mình ông.
Năm 1972 bộ sưu tập điêu khắc gỗ dân gian đình làng của Bảo tàng Mỹ
thuật được công bố, ông như được tiếp thêm sức lực trên con đường
đến với cái đẹp trong quan niệm thẩm mỹ của tiền nhân. Ông đọc được
những ký hiệu ẩn tàng từ cái trần tục phóng đãng của điêu khắc đình
làng, những gái quê vú vê xiêm áo tưng bừng trên từng thớ gỗ, những
cảnh đánh vật chọi gà hồn nhiên trên sới ganh đua, hình khối không
còn lặng lẽ trong đường viền tĩnh tại mà chuyển động xô đẩy, lệch lạc,
một thứ điêu khắc Baroque của Việt Nam, thật hiếm hoi đã xuất hiện
vào cuối thế kỷ 17 đầy biến động trong lịch sử nghệ thuật Việt Nam.
Nghệ thuật của Nguyễn Tư Nghiêm là nghệ thuật bác học bởi ông bỏ
rất nhiều công sức đi tìm vẻ đẹp từ điêu khắc đình làng thô kệch đến
mỹ thuật uyển nhã sang trọng của thời Lý Trần. Từ cái lực lưỡng điêu
khắc thời Lê đến lối biến hóa đầy sinh động trong không gian quyền
quý Nghệ thuật Nguyễn.
Và sau khi thâm nhập vào thế giới cổ đại đó ông đã sáng tạo một cách
trôi chảy biểu đạt nhũng nhân vật sau bao lớp sương mù của lịch sử,
ông đã làm người xem phải trăn trở, suy nghĩ không thể lãnh đạm trước
những tác phẩm Điệu múa cổ, Thánh Gióng, Kiều, 12 con giáp...
Điệu múa cổ là một đề tài ám ảnh ông từ rất sớm khi ông còn tuổi hoa
niên. Nhưng nó chỉ được xuất hiện với tư cách là một tác phẩm hoàn
chỉnh vào năm 1956. Đó là tập hợp về một nhịp điệu được rút ra từ
nghệ thuật cung đình Huế, hoặc bóng dáng cô gái quê bước ra từ điêu
khắc đình làng với những biến tấu, vũ điệu, động tác. Đoàn người có
trẻ, có già, đàn ông, đàn bà được tạo bởi một hệ thống hình nét đặc
trưng Nguyễn Tư Nghiêm. Tiết tấu vấn vít, nhịp nhàng chuyển động
trong một vòng tròn luân vũ âm thầm. Những đôi chân như quyện vào
nhau, hình thể dáng người nhạt nhòa, chơi vơi như trong điệu múa
Chạy đàn của nhà Phật không biết đến không gian thời gian... Màu
trắng phấn trên những nét mặt thiếp đi miên man phản ánh giấc mơ của
con người về thế gian, tò mò, rụt rè vừa chân thực, vừa siêu thực trong
một vũ điệu luân hồi. Những đường kỷ hà gấp khúc trên quần áo nhân
vật, những hình nét chồng chéo, xô đẩy quấn quýt của một cuộc lộng
vũ như không bao giờ kết thúc.
Ông cũng là họa sĩ độc đáo sử dụng sơn mài và bột màu thành thạo.
Hiếm khi thấy ông vẽ sơn dầu và vẽ lụa. Bột màu dưới tay ông được
biến hóa lạ thường, một bộ 12 con giáp là một bằng chứng cho lối vẽ
bậc thầy trên bột màu giản dị. Những con vật tiêu biểu cho tính cách
của con người. Mỗi độ xuân về ông lại khai bút vẽ con vật của năm đó
với hình hài dũng mãnh, uyển chuyển, ngộ nghĩnh. Ta tìm thấy ý tứ
chuyển dịch của một năm, từ tốn cách điệu cao, bột màu trong trẻo,
nguyên sắc. 12 cung trong vòng tròn dịch lý, thời khắc trong năm, màu
tung tẩy ứng vớ ...