NÂNG TRÌNH ĐỘ SỐNG ĐỂ THÍCH NGHI - PHÁT TRIỂN
Số trang: 4
Loại file: pdf
Dung lượng: 128.79 KB
Lượt xem: 9
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Lịch sử ngoại xâm liên miên, người Việt quen sống co lại, ít có khao khát ra với thế giới, hiểu thế giới. Càng co lại ta càng đánh mất đi khả năng phát triển, càng không đủ bản lĩnh để ra với thế giới và hiểu thế giới. Nhìn lại thời gian mấy chục năm nay, dễ thấy Việt Nam sau chiến tranh đã trải qua một quá trình, lúc chậm lúc nhanh, nhiều lúc như là quanh co, hỗn loạn, nhưng nhìn chung đến nay đã chạm tới một cái ngưỡng và cần lo để chuyển sang...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
NÂNG TRÌNH ĐỘ SỐNG ĐỂ THÍCH NGHI - PHÁT TRIỂN NÂNG TRÌNH ĐỘ SỐNG ĐỂ THÍCH NGHI - PHÁT TRIỂN Vương Trí Nhàn Lịch sử ngoại xâm liên miên, người Việt quen sống co lại, ít có khao khát ra với thế giới, hiểu thế giới. Càng co lại ta càng đánh mất đi khả năng phát triển, càng không đủ bản lĩnh để ra với thế giới và hiểu thế giới. Nhìn lại thời gian mấy chục năm nay, dễ thấy Việt Nam sau chiến tranh đãtrải qua một quá trình, lúc chậm lúc nhanh, nhiều lúc như là quanh co, hỗn loạn,nhưng nhìn chung đến nay đã chạm tới một cái ngưỡng và cần lo để chuyển sanggiai đoạn mới. Có thể hình dung xã hội VN trong quá khứ là đoàn quân tổ chứcvới nhiệt tình, và quyết tâm giữ nước hơn là xã hội làm ăn. Chiến tranh cho phépngười ta bất chấp quy luật miễn là được việc; chỉ lo hiệu quả, còn cái giá của nóthì không cần biết. Chiến tranh từng bòn rút tất cả sức lực, kéo cuộc sống chậm lại. Mở cửa, talại lao vào làm ăn với bất cứ giá nào, sức khỏe kém đi, con cái không người dạydỗ, cũng hư hỏng đi. Nhìn cả môi trường tự nhiên lẫn môi trường xã hội đều bị xóimòn mà không khỏi xót xa. Trong chiến tranh, nhất là chiến tranh ở VN, cứ chờ cónhững điều kiện cần và đủ thì không ai dám làm gì. Phải liều. Phải duy ý chí. Cáchlàm đó nay vẫn được ta áp dụng. Từ chiến tranh bước ra ta chưa nhận thức đầy đủ rằng mình là một thànhphần của thế giới và trước sau sẽ phát triển theo quy luật của thế giới. Cho đếntương lai của ta ra sao, cũng chưa ai hình dung nổi. Nếu trong chiến tranh ta phávới bất cứ giá nào thì nay ta xây với bất cứ giá nào. Trên báo chí luôn có những tinđại loại cây cầu này sang năm phá năm nay vẫn cứ thi công vì đã vào kế hoạch rồi,hoặc xây nhà máy ào ào mà chả chú ý gì tới tác hại của nó với môi trường. Ở ta, tư tưởng tiểu nông chi phối tất cả. Tâm lý tiểu nông vẫn còn ăn sâutrong cách đi ra thế giới của người mình. Và cả cách tư duy nữa: tư duy tiểu nông.Ta không chuẩn bị để bước vào thế giới hiện đại. Với quá trình lịch sử liên miên bịđe doạ bởi ngoại xâm, người Việt quen nghĩ rằng những tai vạ của mình là donước ngoài mang tới. Trong mắt ta, họ thường là là kẻ thù nhiều hơn là đối táccùng tồn tại. Ta quen sống co lại, ít có khao khát ra với thế giới, hiểu thế giới.Trong tiếp xúc ít có khả năng đặt mình vào địa vị người khác, không có thói quenvà kinh nghiệm quan hệ với bên ngoài, lảng tránh là hơn. Càng co lại ta càng đánh mất đi khả năng phát triển, càng không đủ bảnlĩnh để ra với thế giới và hiểu thế giới. Đợt hội nhập vừa rồi là có vẻ như ta buộcphải bung ra, mở cửa, chứ thật ra chưa chín ở bên trong. Vừa không có thói quen,vừa không chuẩn bị thích đáng, cuối cùng ta nhảy đại cho xong. Chính cái đósinh ra nhiều tệ nạn: tâm lí đánh quả, định đi tắt đón đầu, lừa, lách luật... Nhìn ở một tầng sâu hơn, có thể nói quan hệ kinh tế của VN với thế giớitrong thời gian vừa qua không dựa trên cơ sở văn hoá chắc chắn. Đại khái thấy ailàm mình cũng làm theo, khi thất bại mới ngớ ra thì đã muộn. Định bán hàng chongười ta nhưng không hiểu gì về lịch sử tâm lý dân tộc cách sống của người ta, cáigu của người ta thì bán sao được? Một xã hội chỉ phát triển được nếu biết ứng xử khôn ngoan với thiên nhiên,vừa khai thác vừa làm giàu thêm thiên nhiên. Đằng này chúng ta quen với tư duyhái lượm, thâu nhặt từ thiên nhiên, hơn là cấy trồng, tổ chức sản xuất tạo ra của cải.Một ví dụ, so với đất đai, VN có tỉ lệ bờ biển khá dài. Nhưng người Việt gần nhưkhông biết khai thác biển, khái niệm kinh tế biển còn quá xa lạ. Trong một tổng kết về chính quyền Hà Nội thời trung đại, người ta lưu ý làtrong số các văn bản đưa ra, pháp lệnh về an ninh chiếm tới 65,56%, trong khi ch ỉ16,42% văn bản ban hành là có liên quan tới sản xuất và kinh doanh, 8,96% liênquan tới quản lý văn hoá xã hội. Suốt thời phong kiến vai trò tổ chức làm ăn củachính quyền hầu như không có. Nói một cách hình ảnh, nếu như xã hội chuẩn làmột cánh rừng nguyên sinh thì VN có nhiều phần giống như đồng cỏ hoang. Vềmặt cá nhân con người chúng ta còn nặng về bản năng và tự phát - người Pháp nóiđó là dạng tư duy tiền Descartes - trước sự duy lí. Bản thân câu một người Việt không thua kém một người Nhật cũng làmột nhận xét mơ hồ, có pha nhiều ảo tưởng. Không nên thảo luận về một cảmtưởng thoáng qua và tuỳ tiện như vậy. Còn cái chuyện ba người Việt so với bangười Nhật thì liên quan tới cấu trúc xã hội. Mượn cách nói của Marx có thể bảoxã hội ta còn ở tình trạng của những bao khoai tây lủng củng. Thế nên cả nước cótới vài chục cảng nước sâu mà không có cảng nào đạt chuẩn quốc tế. Trong trường kỳ lịch sử, yếu tố bên ngoài luôn luôn đóng vai trò những cúhích thúc đẩy sự chuyển đổi của xã hội. Có điều, các yếu tố đó thường tác độngngoài sự kiểm soát người trong cuộc. Ta không tự nguyện đón nhận. Nghèo là nhưvậy, kém p ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
NÂNG TRÌNH ĐỘ SỐNG ĐỂ THÍCH NGHI - PHÁT TRIỂN NÂNG TRÌNH ĐỘ SỐNG ĐỂ THÍCH NGHI - PHÁT TRIỂN Vương Trí Nhàn Lịch sử ngoại xâm liên miên, người Việt quen sống co lại, ít có khao khát ra với thế giới, hiểu thế giới. Càng co lại ta càng đánh mất đi khả năng phát triển, càng không đủ bản lĩnh để ra với thế giới và hiểu thế giới. Nhìn lại thời gian mấy chục năm nay, dễ thấy Việt Nam sau chiến tranh đãtrải qua một quá trình, lúc chậm lúc nhanh, nhiều lúc như là quanh co, hỗn loạn,nhưng nhìn chung đến nay đã chạm tới một cái ngưỡng và cần lo để chuyển sanggiai đoạn mới. Có thể hình dung xã hội VN trong quá khứ là đoàn quân tổ chứcvới nhiệt tình, và quyết tâm giữ nước hơn là xã hội làm ăn. Chiến tranh cho phépngười ta bất chấp quy luật miễn là được việc; chỉ lo hiệu quả, còn cái giá của nóthì không cần biết. Chiến tranh từng bòn rút tất cả sức lực, kéo cuộc sống chậm lại. Mở cửa, talại lao vào làm ăn với bất cứ giá nào, sức khỏe kém đi, con cái không người dạydỗ, cũng hư hỏng đi. Nhìn cả môi trường tự nhiên lẫn môi trường xã hội đều bị xóimòn mà không khỏi xót xa. Trong chiến tranh, nhất là chiến tranh ở VN, cứ chờ cónhững điều kiện cần và đủ thì không ai dám làm gì. Phải liều. Phải duy ý chí. Cáchlàm đó nay vẫn được ta áp dụng. Từ chiến tranh bước ra ta chưa nhận thức đầy đủ rằng mình là một thànhphần của thế giới và trước sau sẽ phát triển theo quy luật của thế giới. Cho đếntương lai của ta ra sao, cũng chưa ai hình dung nổi. Nếu trong chiến tranh ta phávới bất cứ giá nào thì nay ta xây với bất cứ giá nào. Trên báo chí luôn có những tinđại loại cây cầu này sang năm phá năm nay vẫn cứ thi công vì đã vào kế hoạch rồi,hoặc xây nhà máy ào ào mà chả chú ý gì tới tác hại của nó với môi trường. Ở ta, tư tưởng tiểu nông chi phối tất cả. Tâm lý tiểu nông vẫn còn ăn sâutrong cách đi ra thế giới của người mình. Và cả cách tư duy nữa: tư duy tiểu nông.Ta không chuẩn bị để bước vào thế giới hiện đại. Với quá trình lịch sử liên miên bịđe doạ bởi ngoại xâm, người Việt quen nghĩ rằng những tai vạ của mình là donước ngoài mang tới. Trong mắt ta, họ thường là là kẻ thù nhiều hơn là đối táccùng tồn tại. Ta quen sống co lại, ít có khao khát ra với thế giới, hiểu thế giới.Trong tiếp xúc ít có khả năng đặt mình vào địa vị người khác, không có thói quenvà kinh nghiệm quan hệ với bên ngoài, lảng tránh là hơn. Càng co lại ta càng đánh mất đi khả năng phát triển, càng không đủ bảnlĩnh để ra với thế giới và hiểu thế giới. Đợt hội nhập vừa rồi là có vẻ như ta buộcphải bung ra, mở cửa, chứ thật ra chưa chín ở bên trong. Vừa không có thói quen,vừa không chuẩn bị thích đáng, cuối cùng ta nhảy đại cho xong. Chính cái đósinh ra nhiều tệ nạn: tâm lí đánh quả, định đi tắt đón đầu, lừa, lách luật... Nhìn ở một tầng sâu hơn, có thể nói quan hệ kinh tế của VN với thế giớitrong thời gian vừa qua không dựa trên cơ sở văn hoá chắc chắn. Đại khái thấy ailàm mình cũng làm theo, khi thất bại mới ngớ ra thì đã muộn. Định bán hàng chongười ta nhưng không hiểu gì về lịch sử tâm lý dân tộc cách sống của người ta, cáigu của người ta thì bán sao được? Một xã hội chỉ phát triển được nếu biết ứng xử khôn ngoan với thiên nhiên,vừa khai thác vừa làm giàu thêm thiên nhiên. Đằng này chúng ta quen với tư duyhái lượm, thâu nhặt từ thiên nhiên, hơn là cấy trồng, tổ chức sản xuất tạo ra của cải.Một ví dụ, so với đất đai, VN có tỉ lệ bờ biển khá dài. Nhưng người Việt gần nhưkhông biết khai thác biển, khái niệm kinh tế biển còn quá xa lạ. Trong một tổng kết về chính quyền Hà Nội thời trung đại, người ta lưu ý làtrong số các văn bản đưa ra, pháp lệnh về an ninh chiếm tới 65,56%, trong khi ch ỉ16,42% văn bản ban hành là có liên quan tới sản xuất và kinh doanh, 8,96% liênquan tới quản lý văn hoá xã hội. Suốt thời phong kiến vai trò tổ chức làm ăn củachính quyền hầu như không có. Nói một cách hình ảnh, nếu như xã hội chuẩn làmột cánh rừng nguyên sinh thì VN có nhiều phần giống như đồng cỏ hoang. Vềmặt cá nhân con người chúng ta còn nặng về bản năng và tự phát - người Pháp nóiđó là dạng tư duy tiền Descartes - trước sự duy lí. Bản thân câu một người Việt không thua kém một người Nhật cũng làmột nhận xét mơ hồ, có pha nhiều ảo tưởng. Không nên thảo luận về một cảmtưởng thoáng qua và tuỳ tiện như vậy. Còn cái chuyện ba người Việt so với bangười Nhật thì liên quan tới cấu trúc xã hội. Mượn cách nói của Marx có thể bảoxã hội ta còn ở tình trạng của những bao khoai tây lủng củng. Thế nên cả nước cótới vài chục cảng nước sâu mà không có cảng nào đạt chuẩn quốc tế. Trong trường kỳ lịch sử, yếu tố bên ngoài luôn luôn đóng vai trò những cúhích thúc đẩy sự chuyển đổi của xã hội. Có điều, các yếu tố đó thường tác độngngoài sự kiểm soát người trong cuộc. Ta không tự nguyện đón nhận. Nghèo là nhưvậy, kém p ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
văn hóa học triết học khoa học xã hội nhân văn giá trị văn hóa bản sắc văn hóaGợi ý tài liệu liên quan:
-
27 trang 342 2 0
-
Tiểu luận triết học - Ý thức và vai trò của ý thức trong đời sống xã hội
13 trang 280 0 0 -
Tiểu luận: Lý thuyết xã hội học
40 trang 254 0 0 -
Oan và giải oan trong truyện Nghiệp oan của Đào Thị của Nguyễn Dữ
6 trang 250 0 0 -
Tiểu luận triết học - Vận dụng quan điểm cơ sở lý luận về chuyển đổi nền kinh tế thị trường
17 trang 234 0 0 -
9 trang 206 0 0
-
Tiểu luận: Tìm hiểu thực trạng giáo dục Đại Học hiện nay ở nước ta
27 trang 204 0 0 -
Tiểu luận: Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ đến Đông Bắc Á
12 trang 203 0 0 -
12 trang 140 0 0
-
15 trang 136 0 0