Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ
Số trang: 11
Loại file: pdf
Dung lượng: 455.41 KB
Lượt xem: 15
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Người Khmer Nam bộ là cư dân nông nghiệp lúa nước và bức tranh văn hóa tộc người độc đáo, phong phú. Trong kho tàng văn hóa ấy, nghệ thuật sân khấu là một trong những giá trị tiêu biểu làm nên nền văn hóa đậm sắc thái Khmer Nam bộ. Nói đến sân khấu của tộc người này thì không thể không nhắc đến hai loại hình tiêu biểu là sân khấu Rô băm và Dù kê.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam BộTiền Văn Triệu1 - Dương Hoàng Lộc2Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ- Nguồn gốc, đặc trưng và các giải pháp bảo tồn, pháttriểnNgười Khmer Nam bộ là cư dân nông nghiệp lúa nước vàbức tranh văn hóa tộc người độc đáo, phong phú. Trong kho tàng văn hóa ấy, nghệ thuật sânkhấu là một trong những giá trị tiêu biểu làm nên nền văn hóa đậm sắc thái Khmer Nam bộ. Nóiđến sân khấu của tộc người này thì không thể không nhắc đến hai loại hình tiêu biểu là sân khấuRô băm và Dù kê. Hai loại hình này là đại diện cho hai giá trị: sân khấu cung đình và sân khấudân gian. Mặc dù vậy, trong sự hình thành và phát triển của sân khấu Dù kê vốn mang đậm sắcthái dân gian ấy có sự kế thừa của đặc trưng và giá trị sân khấu Rô băm kết hợp với các loại hìnhnghệ thuật của tộc người Kinh, Hoa như nghệ thuật sân khấu cải lương và hát Tiều. Như vậy,nghệ thuật sân khấu như Dù kê của người Khmer Nam bộ có đặc trưng, giá trị gì cũng như cácgiải pháp bảo tồn đối với loại hình nghệ thuật này trong bối cảnh hiện nay.1. Dù kê- tên gọi và nguồn gốc- Từ góc độ dân gian:Đến nay, về mặt tên gọi của loại hình nghệ thuật sân khấu Dù kê vẫn chưa có sự thống nhất, địnhdanh một cách rõ ràng. Có ý kiến đề xuất gọi là Yi kê (Dì kê) vì căn cứ theo ngôn ngữ Khmerkhông tồn tại cụm từ Dù kê. Có lẽ vì vậy mà hiện nay, tên gọi Dì kê vẫn được người Khmer ởAn Giang dùng để chỉ loại hình ca kịch truyền thống của người Khmer An Giang nói riêng vàNam bộ nói chung. Bên cạnh đó, còn có ý kiến cho rằng, tên gọi Dì kê là cách gọi của ngườiKhmer vùng cao (ý chỉ người Khmer An Giang) định danh cho loại hình sân khấu này. Mặc dùviệc xác định sự khác biệt về loại hình Dì kê và Dù kê cần có sự so sánh đối chiếu một cách rõràng vì Dì kê vốn có nguồn gốc từ Campuchia, trong khi đó Dù kê lại ra đời ở mảnh đất Nam bộmà người Khmer Campuchia gọi là La khon Bassac (sân khấu vùng Bassac).Từ thực tế đó, có thể thấy chưa có có sự thống nhất về mặt thuật ngữ loại hình cho tên gọi này.Thay vào đó, như chúng ta biết, một quy luật quan trọng của ngôn ngữ là gọi trại, đọc trại cho dễnói, dễ nghe, dễ tiếp nhận. Quy luật đó không chỉ riêng của nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer màcủa chung các nhón ngôn ngữ khác. Vì vậy, tiếng Dì kê gọi trại thành Dù kê trong ngôn ngữKhmer cũng là điều hết sức bình thường. Có lẽ vì vậy mà người Khmer Nam bộ nói chung hiện12ThS. Hội viên Hội Văn nghệ dân gian Việt NamThS. Hội viên Hội Văn nghệ dân gian Việt Namnay đều gọi là Dù kê cho dễ nghe, dễ nhớ, dễ đọc, dễ phát âm. Mặt khác, cũng có thể hiểu, tiếng“Dù” và “Dì” (Yi) được phát âm ra còn tùy thuộc và chịu ảnh hưởng rất lớn từ môi trường vănhóa như các điều kiện thổ nhưỡng, môi sinh mà người Khmer sinh sống. Chính vì thế mới cóhiện tượng phát âm nặng, nhẹ. Thậm chí người Khmer ở Sóc Trăng và Trà Vinh về mặt phát âmcũng có sự khác nhau về ngữ điệu (độ nặng, nhẹ). Và dựa trên quy luật như vậy, chuyện gọi làDù kê hay gọi đúng nguyên ngữ là Yi kê (Dì kê) cũng là chuyện bình thường. Từ hiện tượng gọitrại này hay nói khác đi là phải gọi tên cho đúng với loại hình sân khấu ra đời ở vùng Bassac đãphản ánh quá trình hình thành và phát triển tuần tự cũng như sự xác quyết về nguồn gốc của nó.Xuất phát từ điểm nhìn như vậy, chúng tôi cho rằng, sự tồn nghi về tên gọi của loại hình này làđiều không cần phải quan tâm nhiều. Thậm chí, tên gọi Dù kê đã cho thấy một xu hướng dângian hóa loại hình nghệ thuật này, đúng như bản chất của nó. Dù kê vốn là loại hình mang đặctrưng văn hóa dân gian đậm nét, chính tên gọi Dù kê đã hàm chứa tính chất này. Không phảingẫu nhiên mà các nhà nghiên cứu khi bàn về đặc điểm của nó đã chỉ ra phương thức “Dù kêbột” - tức Dù kê tồn tại mang tính chất địa phương trong từng phum sóc Khmer ở vùng đất CửuLong. Vấn đề đặc trưng chúng tôi sẽ trình bày sau.Trong quá trình đi từ vùng đất Nam bộ Việt Nam sang đất Campuchia lưu diễn, loại hình nghệthuật này được gọi là “Lo khon Bassac” tức sân khấu vùng Bassac - chỉ Dù kê của người Khmerở phía Tây.- Từ góc độ nghiên cứu khoa học:Xuất hiện dưới góc độ các bài viết, công trình nghiên cứu, tên gọi Dù kê là tên gọi chính thứcđược các nhà nghiên cứu sử dụng. Tiêu biểu như các tác giả của các công trình “Người Khơ - Metỉnh Cửu Long” (1987), “Tìm hiểu vốn văn hóa dân tộc Khmer Nam bộ” (1988), “Tìm hiểu nghệthuật sân khấu Dù kê Khmer Nam bộ trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng” (2012). Ngoài ra trên một sốtạp chí khoa học, thuật ngữ Dù kê cũng được dùng chính thống, tiêu biểu như bài viết “Hai loạihình sân khấu của người Khmer Sóc Trăng” (2012), “Đặc trưng sân khấu Dù kê Khmer Nam bộ”(2013)…Mặc dù vậy, cách sử dụng thuật ngữ của một vài tác giả đã có sự phân biệt giữa khái niệm Dù kêvà Dì kê. Tác giả của công trình “Tìm hiểu nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam bộ trên địabàn tỉnh Sóc Trăng” (2012), cho rằng Dì kê (hát Lăm) chính là nền tảng thứ hai của sân khấu Dùkê Khmer Nam bộ[1]. Theo tác giả này thì Dù kê ngoài việc dựa trên nền tả ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam BộTiền Văn Triệu1 - Dương Hoàng Lộc2Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ- Nguồn gốc, đặc trưng và các giải pháp bảo tồn, pháttriểnNgười Khmer Nam bộ là cư dân nông nghiệp lúa nước vàbức tranh văn hóa tộc người độc đáo, phong phú. Trong kho tàng văn hóa ấy, nghệ thuật sânkhấu là một trong những giá trị tiêu biểu làm nên nền văn hóa đậm sắc thái Khmer Nam bộ. Nóiđến sân khấu của tộc người này thì không thể không nhắc đến hai loại hình tiêu biểu là sân khấuRô băm và Dù kê. Hai loại hình này là đại diện cho hai giá trị: sân khấu cung đình và sân khấudân gian. Mặc dù vậy, trong sự hình thành và phát triển của sân khấu Dù kê vốn mang đậm sắcthái dân gian ấy có sự kế thừa của đặc trưng và giá trị sân khấu Rô băm kết hợp với các loại hìnhnghệ thuật của tộc người Kinh, Hoa như nghệ thuật sân khấu cải lương và hát Tiều. Như vậy,nghệ thuật sân khấu như Dù kê của người Khmer Nam bộ có đặc trưng, giá trị gì cũng như cácgiải pháp bảo tồn đối với loại hình nghệ thuật này trong bối cảnh hiện nay.1. Dù kê- tên gọi và nguồn gốc- Từ góc độ dân gian:Đến nay, về mặt tên gọi của loại hình nghệ thuật sân khấu Dù kê vẫn chưa có sự thống nhất, địnhdanh một cách rõ ràng. Có ý kiến đề xuất gọi là Yi kê (Dì kê) vì căn cứ theo ngôn ngữ Khmerkhông tồn tại cụm từ Dù kê. Có lẽ vì vậy mà hiện nay, tên gọi Dì kê vẫn được người Khmer ởAn Giang dùng để chỉ loại hình ca kịch truyền thống của người Khmer An Giang nói riêng vàNam bộ nói chung. Bên cạnh đó, còn có ý kiến cho rằng, tên gọi Dì kê là cách gọi của ngườiKhmer vùng cao (ý chỉ người Khmer An Giang) định danh cho loại hình sân khấu này. Mặc dùviệc xác định sự khác biệt về loại hình Dì kê và Dù kê cần có sự so sánh đối chiếu một cách rõràng vì Dì kê vốn có nguồn gốc từ Campuchia, trong khi đó Dù kê lại ra đời ở mảnh đất Nam bộmà người Khmer Campuchia gọi là La khon Bassac (sân khấu vùng Bassac).Từ thực tế đó, có thể thấy chưa có có sự thống nhất về mặt thuật ngữ loại hình cho tên gọi này.Thay vào đó, như chúng ta biết, một quy luật quan trọng của ngôn ngữ là gọi trại, đọc trại cho dễnói, dễ nghe, dễ tiếp nhận. Quy luật đó không chỉ riêng của nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer màcủa chung các nhón ngôn ngữ khác. Vì vậy, tiếng Dì kê gọi trại thành Dù kê trong ngôn ngữKhmer cũng là điều hết sức bình thường. Có lẽ vì vậy mà người Khmer Nam bộ nói chung hiện12ThS. Hội viên Hội Văn nghệ dân gian Việt NamThS. Hội viên Hội Văn nghệ dân gian Việt Namnay đều gọi là Dù kê cho dễ nghe, dễ nhớ, dễ đọc, dễ phát âm. Mặt khác, cũng có thể hiểu, tiếng“Dù” và “Dì” (Yi) được phát âm ra còn tùy thuộc và chịu ảnh hưởng rất lớn từ môi trường vănhóa như các điều kiện thổ nhưỡng, môi sinh mà người Khmer sinh sống. Chính vì thế mới cóhiện tượng phát âm nặng, nhẹ. Thậm chí người Khmer ở Sóc Trăng và Trà Vinh về mặt phát âmcũng có sự khác nhau về ngữ điệu (độ nặng, nhẹ). Và dựa trên quy luật như vậy, chuyện gọi làDù kê hay gọi đúng nguyên ngữ là Yi kê (Dì kê) cũng là chuyện bình thường. Từ hiện tượng gọitrại này hay nói khác đi là phải gọi tên cho đúng với loại hình sân khấu ra đời ở vùng Bassac đãphản ánh quá trình hình thành và phát triển tuần tự cũng như sự xác quyết về nguồn gốc của nó.Xuất phát từ điểm nhìn như vậy, chúng tôi cho rằng, sự tồn nghi về tên gọi của loại hình này làđiều không cần phải quan tâm nhiều. Thậm chí, tên gọi Dù kê đã cho thấy một xu hướng dângian hóa loại hình nghệ thuật này, đúng như bản chất của nó. Dù kê vốn là loại hình mang đặctrưng văn hóa dân gian đậm nét, chính tên gọi Dù kê đã hàm chứa tính chất này. Không phảingẫu nhiên mà các nhà nghiên cứu khi bàn về đặc điểm của nó đã chỉ ra phương thức “Dù kêbột” - tức Dù kê tồn tại mang tính chất địa phương trong từng phum sóc Khmer ở vùng đất CửuLong. Vấn đề đặc trưng chúng tôi sẽ trình bày sau.Trong quá trình đi từ vùng đất Nam bộ Việt Nam sang đất Campuchia lưu diễn, loại hình nghệthuật này được gọi là “Lo khon Bassac” tức sân khấu vùng Bassac - chỉ Dù kê của người Khmerở phía Tây.- Từ góc độ nghiên cứu khoa học:Xuất hiện dưới góc độ các bài viết, công trình nghiên cứu, tên gọi Dù kê là tên gọi chính thứcđược các nhà nghiên cứu sử dụng. Tiêu biểu như các tác giả của các công trình “Người Khơ - Metỉnh Cửu Long” (1987), “Tìm hiểu vốn văn hóa dân tộc Khmer Nam bộ” (1988), “Tìm hiểu nghệthuật sân khấu Dù kê Khmer Nam bộ trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng” (2012). Ngoài ra trên một sốtạp chí khoa học, thuật ngữ Dù kê cũng được dùng chính thống, tiêu biểu như bài viết “Hai loạihình sân khấu của người Khmer Sóc Trăng” (2012), “Đặc trưng sân khấu Dù kê Khmer Nam bộ”(2013)…Mặc dù vậy, cách sử dụng thuật ngữ của một vài tác giả đã có sự phân biệt giữa khái niệm Dù kêvà Dì kê. Tác giả của công trình “Tìm hiểu nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam bộ trên địabàn tỉnh Sóc Trăng” (2012), cho rằng Dì kê (hát Lăm) chính là nền tảng thứ hai của sân khấu Dùkê Khmer Nam bộ[1]. Theo tác giả này thì Dù kê ngoài việc dựa trên nền tả ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nghệ thuật sân khấu Sân khấu Dù kê Khmer Văn hóa đậm sắc thái Khmer Nam bộ Sân khấu Rô băm và Dù kê Nông nghiệp lúa nướcGợi ý tài liệu liên quan:
-
43 trang 622 9 0
-
22 trang 37 0 0
-
17 trang 37 0 0
-
Từ kịch bản văn học đến vở diễn sân khấu
5 trang 37 0 0 -
Nghệ thuật sân khấu và đời sống văn hóa sân khấu Việt Nam: Phần 2
598 trang 35 0 0 -
Gợi ý sắp xếp đội hình trên sân khấu
5 trang 32 0 0 -
Luyện tập kỹ năng thuyết trình cho người mới bắt đầu (tái bản): Phần 2
130 trang 32 0 0 -
88 trang 29 0 0
-
Tìm hiểu về nghệ thuật sân khấu Việt Nam: Phần 2
89 trang 28 0 0 -
Nghệ thuật sân khấu và đời sống văn hóa sân khấu Việt Nam: Phần 1
454 trang 27 0 0