Thông tin tài liệu:
"Bằng chứng rõ nét về điều này là nghệ thuật sắp đặt ở Việt Nam, có hiệu ứng hình ảnh nhưng chỉ mang tính chiếu lệ, không có tính tượng trưng sâu sắc hay nội dung ẩn dụ. Các nghệ sĩ lấy một chủ đề hay nội dung chủ đạo cho cái tư tưởng thể hiện sự không hiểu biết của họ trong nghệ thuật sắp đặt. Điều này có thể giải thích được nếu bạn xem xét đến tình trạng thiếu thông tin và kiến thức cũng như trình độ học vấn có hạn trong giới nghệ thuật Việt...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nghệ thuật Việt Nam: Cái nhìn của nhà buôn tranh nước ngoài
Nghệ thuật Việt Nam: Cái nhìn
của nhà buôn tranh nước ngoài
Tác giả: Natalia Kraevskaia - giám đốc Salon Natasha tại Hà Nội
Minh Long dịch từ Articles
... Bằng chứng rõ nét về điều này là nghệ thuật sắp đặt ở Việt Nam, có
hiệu ứng hình ảnh nhưng chỉ mang tính chiếu lệ, không có tính tượng
trưng sâu sắc hay nội dung ẩn dụ. Các nghệ sĩ lấy một chủ đề hay nội
dung chủ đạo cho cái tư tưởng thể hiện sự không hiểu biết của họ trong
nghệ thuật sắp đặt. Điều này có thể giải thích được nếu bạn xem xét
đến tình trạng thiếu thông tin và kiến thức cũng như trình độ học vấn
có hạn trong giới nghệ thuật Việt Nam...
Đổi mới hay trì trệ?
Sự chuyển hướng chưa từng có trong nghệ thuật hiện đại Việt Nam sau
Đổi mới được rất nhiều người thừa nhận. Việc xuất hiện các hình thức
nghệ thuật mới và sự đa dạng phong cách, việc các nhà phê bình nước
ngoài và công chúng thừa nhận nghệ thuật hiện đại Việt Nam, việc
tham gia của các họa sĩ vào những chương trình triển lãm quốc tế và dự
án nghệ thuật khác nhau ở nước ngoài - tất cả những điều này dự đoán
cho sự nở rộ trong tương lai của nền nghệ thuật Việt Nam.
Tuy nhiên, những dấu hiệu đầu tiên về sự trì trệ đã thấy hiển hiện rõ nét
vào cuối thập niên 90 thế kỷ XX. Qua phân tích tình hình ở các nước
châu Á khác cho thấy những nét tương đồng trong xu hướng suy thoái
của quá trình phát triển nghệ thuật hiện đại ở những nước không được
chính phủ bảo trợ đúng mức và không có một thị trường nghệ thuật địa
phương.
Nhằm xác lập một chiến lược có thể giúp vượt qua những vấn đề này,
trước tiên hãy cùng nhau xác định những khía cạnh tiêu cực sau đây:
1. Vực thẳm ngăn cách giữa truyền thống và hiện đại, giữa thực nghiệm
và thường thức đã trở nên rất khó cảm nhận và những nét tương phản
mạnh mẽ trong bức tranh nghệ thuật giữa thập niên 90 thế kỷ XX đã
thể hiện một bề mặt bằng phẳng hơn. Ngay cả sự đối lập giữa hai thể
loại triển lãm - thể loại hiện đại và thể loại kế thừa từ thời kỳ trước Đổi
mới – cũng đã được chuyển hóa thành một dạng cùng tồn tại. Nhiều
cuộc triển lãm hiện đại thiếu đi một yếu tố kiếm tìm những ý tưởng và
hình thức đại diện mới và trở nên tẻ nhạt hơn so với cái gọi là nghệ
thuật truyền thống;
2. Sự tự hạn chế của các họa sĩ, việc sợ dẫm chân lên ranh giới của
thông lệ và cảm nhận cái mới rất phổ biến hiện nay. Đi kèm theo đó
thường là trò nước đôi của các họa sĩ khi đối mặt với sự kiểm soát của
nhà nước, nhưng những lý do để bất mãn đó đôi khi được dùng để bào
chữa cho tình trạng thiếu sáng tạo và những ý tưởng độc đáo;
3. Sự đổi mới giờ đây thật hiếm hoi. Chúng có thể sáng sủa và nổi bật
song thường không được bản thân giới nghệ thuật thừa nhận. Tính thẩm
mỹ cao thường được đánh giá cao hơn xu hướng khái niệm mặc dù xu
hướng khái niệm là trào lưu chính trong nghệ thuật đương đại thế giới,
nơi mà các nguyên tắc thẩm mỹ đã bị đánh bật ra ngoài lề bởi một sự
thôi thúc hướng tới hiểu biết về cái tôi, nơi mà nghệ thuật không chỉ
đơn giản là một kỹ năng miêu tả, mà thay vào đó là phương tiện để xây
dựng một cá tính, để thiết lập một chương trình đạo lý, triết lý và thẩm
mỹ. Đây là những gì mà các nghệ sĩ Việt Nam đang thiếu.
Bằng chứng rõ nét về điều này là nghệ thuật sắp đặt ở Việt Nam, có
hiệu ứng hình ảnh nhưng chỉ mang tính chiếu lệ, không có tính tượng
trưng sâu sắc hay nội dung ẩn dụ. Các nghệ sĩ lấy một chủ đề hay nội
dung chủ đạo cho cái tư tưởng thể hiện sự không hiểu biết của họ trong
nghệ thuật sắp đặt. Điều này có thể giải thích được nếu bạn xem xét
đến tình trạng thiếu thông tin và kiến thức cũng như trình độ học vấn có
hạn trong giới nghệ thuật Việt Nam. Thực tế này được nhấn mạnh bởi
Phạm Cẩm Thượng và Lương Xuân Đoàn, trong một bài viết rất hay
trong cuốn sách Các họa sĩ trẻ Việt Nam. Nhìn từ một góc độ rộng
hơn, các họa sĩ trẻ Việt Nam rất khác so với các nhà văn cùng thời với
họ theo nghĩa là họ không có trình độ tri thức ngang hàng và đặt ít tư
tưởng trong tác phẩm của mình hơn. Họ thiếu khả năng sắc sảo của các
nhà văn trong việc nhận thức triết lý. Tôi biết rằng rằng cụm từ này
cũng như một số cụm từ khác trong cuốn sách khiến một số họa sĩ rất
giận dữ, song đây lại là một sự thật cay đắng. Những người ở độ tuổi
50, 60 hay 70 thường có trình độ học vấn và mức độ tu dưỡng tốt hơn,
chứ không phải những người quyết định đến tương lai của nghệ thuật
hiện đại.
4. Những họa sĩ giỏi nhất, nổi tiếng nhất và kỳ cựu nhất thường đánh
cắp cuộc đời của chính mình, khả năng sáng tạo của họ dựa duy nhất
vào khát vọng tái tạo bản thân của họ. Việc làm nghệ thuật của họ
chuyển sang hình thức sản xuất hàng hóa, đều đặn cung cấp cho thị
trường những hàng hóa đã được chứng nhận.
5. Thế hệ trẻ đã hùa vào cùng trào lưu sao chép các tác phẩm bán chạy
nhất và sáng tác ra một mới hổ lốn những tác phẩm chẳng có gì đặc biệt
đằng sau những cái tên như Cương, Phương, Phong;
6. Nhân tố tiêu cực tiếp theo là ảnh hưởng không phải bàn cãi của thị
trường bao gồm chủ yếu những người nước ngoài. Đó không phải là
những người phụ trách bảo tàng, các đại diện của triển lãm hay bảo
đang đang tìm kiếm nghệ thuật sáng tạo, những người hình thành nên
chiến lược thị trường, mà là đông đảo những người nước ngoài coi
nghệ thuật như một sự đầu tư tốt hay mua các tác phẩm nghệ thuật để
trang trí cho các văn phòng và phòng khách của mình.
Khách hàng nước ngoài, họ là ai?
Nhóm thứ nhất là các nhà ngoại giao và nhà quản lý công ty đang sống
ở Việt Nam. Vị thế địa vị xã hội và thu nhập của họ ở Việt Nam cao
hơn so với ở nước họ. Nhiều người trước đó rất hiếm khi đến thăm các
triển lãm nghệ thuật và hầu như chưa bao giờ (ngoại trừ những người
sưu tầm nghệ thuật) mua các tác phẩm nghệ thuật. Ở Việt Nam, địa vị
xã hội mới được nâng cao của họ thôi thúc họ thỏa mãn một số yêu cầu
trong đó có việc mua các tác phẩm nghệ thuật (tôi không muốn dùng từ
sưu tầm trong trường hợp này), mà việc đó được coi là một sở thích
tốt. Mức giá thấp hơn cũng là yếu tố khuyến khích h ...