Danh mục

Nghiên cứu ảnh hưởng của một số nhân tố tới mức độ tự chủ của các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc lĩnh vực giáo dục trên địa bàn tỉnh Bắc Giang

Số trang: 10      Loại file: pdf      Dung lượng: 407.74 KB      Lượt xem: 11      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Mục tiêu của bài viết "Nghiên cứu ảnh hưởng của một số nhân tố tới mức độ tự chủ của các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc lĩnh vực giáo dục trên địa bàn tỉnh Bắc Giang" là thông qua mô hình kinh tế lượng, nghiên cứu ảnh hưởng của một số nhân tố tới mức độ tự chủ của các đơn vị SNCL thuộc lĩnh vực giáo dục trên địa bàn tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2010–2016, từ đó, đề xuất những phương thức chuyển đổi phù hợp, nâng cao mức độ tự chủ của các đơn vị SNCL thuộc lĩnh vực giáo dục theo tinh thần nghị định 16/2015/NĐ-CP. Mời các bạn cùng tham khảo!
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nghiên cứu ảnh hưởng của một số nhân tố tới mức độ tự chủ của các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc lĩnh vực giáo dục trên địa bàn tỉnh Bắc Giang NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA MỘT SỐ NHÂN TỐ TỚI MỨC ĐỘ TỰ CHỦ CỦA CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP THUỘC LĨNH VỰC GIÁO DỤC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC GIANG Ngô Thanh Hoàng1, Hy Thị Hải Yến, Ngô Thị Thùy Quyên, Nguyen Thuy Linh Tóm tắt: Quá trình tự chủ các đơn vị sự nghiệp công lập (SNCL) diễn ra ngày càng mạnh mẽ đòi hỏi các đơn vị SNCL nói chung và các đơn vị SNCL thuộc lĩnh vực giáo dụcnói riêng cần phải chuyển đổi phương thức hoạt động nhằm chủ động về nguồn tài chính, dần tách khỏi sự hỗ trợ từngân sách nhà nước (NSNN). Mục tiêu của bài viết này là thông qua mô hình kinh tế lượng, nghiên cứu ảnh hưởng của một số nhân tố tới mức độ tự chủ của các đơn vị SNCL thuộc lĩnh vực giáo dục trên địa bàn tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2010 – 2016, từ đó, đề xuất những phương thức chuyển đổi phù hợp, nâng cao mức độ tự chủ của các đơn vị SNCL thuộc lĩnh vực giáo dục theo tinh thần nghị định 16/2015/NĐ-CP Public service autonomy (SNCL) progresses steadily, thus requires SNCL institutions in general and SNCL institutions in the education sector to change their way to operate. Financial resources, gradually must be separated from the state budget. This paper is aimed to study the impact of some factors on the autonomy of SNCL institutions in the education sector in Bac Giang province for the period 2010 - 2016. , from which, propose appropriate modalities to improve the autonomy of SNCL insitution in the education sector following the instructions of Decree 16/2015 / ND-CP. Keywords: SNCL, public services autonomy, education sector, Bac giang 1. GIỚI THIỆU VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU Bắc Giang là tỉnh miền núi phía Bắc, có 10 huyện, thành phố với 230 xã, phường, thị trấn. Hiện có 833 cơ sở giáo dục (mầm non 276 trường; tiểu học 260 trường; trung học cơ sở 225 trường; TH&THCS 15 trường; THPT công lập: 37 trường; THPT ngoài công lập: 10 trường; 9 trung tâm, 01 trường cao đẳng), trong đó đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở là 47 đơn vị (gồm 37 trường THPT công lập; 9 trung tâm GDTX-GDNN và 01 trường cao đẳng), chiếm 81,7% tổng số đơn vị sự nghiệp công lập trên địa bàn toàn tỉnh. Nếu tính mức độ tự chủ của các đơn vị SNCL thuộc lĩnh vực giáo dục năm 2015 theo công thức bằng tổng nguồn thu của đơn vị/ tổng chi hoạt động thì chưa có đơn vị nào trong lĩnh vực giáo dục đào tạo thuộc nhóm đơn vị tự đảm bảo chi thường xuyên và chi đầu tư cũng như thuộc đơn vị tự đảm bảo chi thường xuyên mà mới chỉ có các đơn vị tự đảm bảo một phần chi thường xuyên với số lượng là 325 đơn vị, chiếm 39,06% tổng số đơn vị sự nghiệp giáo dục và đào tạo trên địa bàn cả tỉnh nhưng có mức tự bảo đảm chi phí hoạt động thường xuyên thấp từ 10% – 15%, còn lại là các đơn vị được ngân sách đảm bảo toàn bộ với số lượng là 508 đơn vị, chiếm 60,98% tổng số đơn vị sự nghiệp giáo dục và đào tạo. 1 Bộ môn Kế toán công, Khoa Tài chính công, Học viện Tài chính. 958 PROCEEDINGS OF THE SUSTAINABLE ECONOMIC DEVELOPMENT AND BUSINESS MANAGEMENT IN THE CONTEXT OF GLOBALISATION Nguồn tài chính của các đơn vị chủ yếu là NSNN cấp, nhưng năm đầu thời kỳ ổn định ngân sách đạt tỷ lệ 80:20 (chi con người và chi khác), cuối thời kỳ chỉ tăng chi con người mà không tăng chi khác. Thêm nữa là nguồn thu học phí, mức thu học phí thực hiện theo khung quy định của Chính phủ, HĐND tỉnh căn cứ vào đó để quy định mức thu cụ thể cho từng vùng thành thị, nông thôn và miền núi nên tổng số thu học phí còn thấp, chỉ vào khoảng 5% so với số ngân sách cấp (đối với đơn vị SNCL đảm bảo một phần) và khoảng 1% (đối với đơn vị nhà nước đảm bảo toàn bộ). Nguồn thu học phí được giành tối thiểu 40% để tạo nguồn cải cách tiền lương, phần còn lại đơn vị quy định để chi hoạt động chuyên môn và tăng cường cơ sở vật chất. Do vậy nguồn tiết kiệm được không phải là tăng thu mà chủ yếu là tiết kiệm chi tiêu, xây dựng các định mức chi tại đơn vị thấp hơn các định mức quy định của tỉnh. Ngoài ra, các đơn vị còn thu tiền dạy thêm học thêm, dịch vụ trông giữ xe đạp và một số khoản thu hộ chi hộ phục vụ học sinh (tiền điện, tiền nước uống, ...). Mức thu tiền dạy thêm học thêm do đơn vị thỏa thuận với phụ huynh học sinh để quy định cho từng đối tượng học thêm. Nhưng nội dung chi do UBND tỉnh quy định, tỷ lệ 75% chi cho người trực tiếp dạy; 5% chi quản lý chỉ đạo; 10% tăng cường CSVC; 10% quỹ phúc lợi. Bảng 1: Cơ cấu nguồn tạo lập kinh phí hoạt động các đơn vị SNCL thuộc lĩnh vực giáo dục trên toàn tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2013 – 2016 Năm Tổng nguồn Thu phí, lệ phí Thu dịch vụ Thu khác NSNN cấp 2013 100% 2.44% 0.68% 2.11% 94.76% 2014 100% 2.48% 0.71% 2.13% 94.67% 2015 100% 2.36% 0.73% 2.11% 94.80% 2016 100% 2.81% 0.20% 2.21% 94.78% Qua các bảng số liệu nêu trên cho thấy nguồn kinh phí hoạt động của các đơn vị sự nghiệp giáo dục trên địa bàn tỉnh chủ yếu đến từ nguồn NSNN cấp với tỷ lệ chiếm trên 94% tổng kinh phí hoạt động qua các năm từ 2013 đến 2016. Hai nguồn kinh phí tiếp theo chiếm không đáng kể là thu phí, lệ phí và thu khác với tỷ lệ trên 2% tổng kinh phí hoạt động. Từ đó có thể cho rằng khả năng tự chủ về tài chính của các đơn vị SNCL trong ngành giáo dục của tỉnh Bắc Giang còn yếu. Nhìn chung, đây là thực trạng khá phổ biến tại các đơn vị SNCL trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, và là một vấn đề phức tạp do bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố, như: các đơn vị đang còn yếu trong huy động nguồn kinh phí h ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: