Nghiên cứu hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết trong trường hợp thay đổi thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp
Số trang: 9
Loại file: pdf
Dung lượng: 381.88 KB
Lượt xem: 20
Lượt tải: 0
Xem trước 1 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Với mục tiêu kiểm tra mối liên hệ giữa hành vi điều chỉnh lợi nhuận của doanh nghiệp niêm yết trong trường hợp thay đổi thuế suất, nghiên cứu dựa vào mô hình của Kothari và các cộng sự (2005) để tính toán và kiểm tra hành vi điều chỉnh lợi nhuận của doanh nghiệp niêm yết (tăng, giảm hay không có điều chỉnh lợi nhuận).
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nghiên cứu hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết trong trường hợp thay đổi thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 39 (08-2019) NGHIÊN CỨU HÀNH VI ĐIỀU CHỈNH LỢI NHUẬN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NIÊM YẾT TRONG TRƯỜNG HỢP THAY ĐỔI THUẾ SUẤT THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP y Trương Thùy Vân(*) Tóm tắt Với mục tiêu kiểm tra mối liên hệ giữa hành vi điều chỉnh lợi nhuận của doanh nghiệp niêm yết trong trường hợp thay đổi thuế suất, nghiên cứu dựa vào mô hình của Kothari và các cộng sự (2005) để tính toán và kiểm tra hành vi điều chỉnh lợi nhuận của doanh nghiệp niêm yết (tăng, giảm hay không có điều chỉnh lợi nhuận). Kết quả nghiên cứu trên 39 doanh nghiệp niêm yết trong thời gian từ 2007 đến 2015 cho thấy, tất cả các doanh nghiệp đưa vào mẫu đều có hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Hành vi điều chỉnh tăng nhiều hơn giảm nhưng quy mô điều chỉnh thấp hơn. Tiếp tục sử dụng mô hình dữ liệu bảng để kiểm tra ảnh hưởng của thay đổi thuế suất đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận, kết quả cho thấy việc thay đổi thuế suất có ảnh hưởng đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận nhưng bằng chứng đưa ra chưa thật sự rõ ràng. Từ khóa: Điều chỉnh lợi nhuận, doanh nghiệp niêm yết, thuế thu nhập doanh nghiệp. 1. Đặt vấn đề đó có chi phí tuân thủ về thuế. Bên cạnh đó, theo lý Ngày 9/3/2018, Việt Nam chính thức ký kết thuyết chi phí chính trị, những thay đổi trong chính Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái sách của nhà nước (các chính sách thuế) sẽ ảnh Bình Dương (Comprehensive and Progressive hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp, từ đó dẫn Agreement for Trans-Pacific Partnership đến khả năng nhà quản trị sử dụng các biện pháp kế (CPTPP)), cùng với đó là hàng loạt cải cách thuế toán nhằm tăng hoặc giảm lợi nhuận doanh nghiệp liên quan, đặc biệt là những chính sách thuế suất sao cho có lợi cho doanh nghiệp nhất [10]. Từ hai và ưu đãi thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp lý thuyết cơ bản nêu trên, có thể thấy những thay cho các lĩnh vực công nghệ mới và xu hướng giảm đổi trong chính sách thuế sẽ tác động đến hành vi thuế suất là tất yếu và phù hợp với tiến trình của điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản trị sao cho có các quốc gia Châu Á [9]. Điều này kéo theo những lợi nhất. Một trong những biểu hiện của thay đổi hành vi quản trị của doanh nghiệp cũng sẽ thay chính sách thuế đó là về tỷ suất thuế thu nhập doanh đổi theo trong đó có hành vi điều chỉnh lợi nhuận nghiệp danh nghĩa (Statutory Tax Rate). Xét về mặt của doanh nghiệp. lý thuyết, khi thay đổi tỷ suất thuế danh nghĩa theo Hành vi điều chỉnh lợi nhuận của doanh hướng giảm tỷ suất thuế thì lợi nhuận ở thời điểm nghiệp được đề cập đầu tiên trong nghiên cứu của trước thay đổi thuế suất sẽ được điều chỉnh giảm Hepworth (1953) khi chỉ ra hành vi và cách thức xuống và sẽ điều chỉnh tăng lên sau thời điểm thay mà nhà quản trị sử dụng để san đều lợi nhuận giữa đổi thuế suất. các năm nhằm giảm mức độ đánh giá rủi ro của nhà Như vậy, xét về mặt lý thuyết, khi có sự thay đầu tư đối với doanh nghiệp [7], [8]. Đây được xem đổi trong chính sách thuế sẽ tác động đến hành vi là khởi đầu cho khái niệm về hành vi điều chỉnh điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản trị trong doanh lợi nhuận dựa trên cơ sở dồn tích. nghiệp. Để kiểm chứng điều này, nghiên cứu sẽ sử Theo lý thuyết đại diện (Agency theory) được dụng phương pháp định lượng thông qua mô hình phát triển bởi Jensen & Meckling (1976), nhà quản hồi quy nhằm kiểm tra các giả thuyết về ảnh hưởng lý sẽ có những biện pháp tác động vào thông tin của thay đổi thuế suất đến hành vi điều chỉnh lợi công bố theo hướng có lợi cho doanh nghiệp nhất, nhuận (xem xét hành vi điều chỉnh lợi nhuận dựa trong khi các tổ chức bên ngoài như cơ quan thuế trên cơ sở dồn tích) của các doanh nghiệp niêm yết lại tìm cách để tối đa khoản thu cho nhà nước trong trên thị trường chứng khoán Việt Nam. 2. Cơ sở lý thuyết (*) Trường Đại học Quảng Bình. Cơ sở kế toán dồn tích là một trong các nguyên 112 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 39 (08-2019) tắc kế toán cơ bản nhất chi phối các phương pháp động kinh doanh nói riêng phải được lập trên cơ sở kế toán cụ thể trong kế toán. Theo đó, mọi giao dịch dồn tích. Điều này mang lại cơ hội cho nhà quản kinh tế liên quan đến tài sản, nợ phải trả, nguồn vốn trị thực hiện hành động quản trị lợi nhuận thông chủ sở hữu, doanh thu và chi phí được ghi nhận tại qua các giao dịch không bằng tiền nhằm đạt được thời điểm phát sinh giao dịch, không quan tâm đến một mục tiêu nào đó. Trong khi đó, kế toán theo thời điểm thực tế thu hoặc chi tiền [1]. Vì việc ghi cơ sở tiền được sử dụng để lập báo cáo lưu chuyển nhận doanh thu và chi phí có ảnh hưởng quyết định tiền tệ (theo phương pháp trực tiếp) dựa trên cơ sở đến báo cáo lợi nhuận của doanh nghiệp trong một thực thu, thực chi tiền nên nhà quản trị không thể kỳ, cơ sở kế toán dồn tích được xem là một nguyên điều chỉnh các giao dịch. Từ đó chênh lệch giữa lợi tắc chính yếu đối với việc xác định lợi nhuận của nhuận trên Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh doanh nghiệp. Lợi nhuận theo cơ sở dồn tích là và dòng tiền trên Báo cáo lưu chuyển tiền tệ (theo phần chênh lệch giữa doanh thu và chi phí, từ đó, phương pháp trực tiếp) tạo ra biến kế toán gọi là báo cáo tài chính nói chung và báo cáo kết quả ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nghiên cứu hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết trong trường hợp thay đổi thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 39 (08-2019) NGHIÊN CỨU HÀNH VI ĐIỀU CHỈNH LỢI NHUẬN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NIÊM YẾT TRONG TRƯỜNG HỢP THAY ĐỔI THUẾ SUẤT THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP y Trương Thùy Vân(*) Tóm tắt Với mục tiêu kiểm tra mối liên hệ giữa hành vi điều chỉnh lợi nhuận của doanh nghiệp niêm yết trong trường hợp thay đổi thuế suất, nghiên cứu dựa vào mô hình của Kothari và các cộng sự (2005) để tính toán và kiểm tra hành vi điều chỉnh lợi nhuận của doanh nghiệp niêm yết (tăng, giảm hay không có điều chỉnh lợi nhuận). Kết quả nghiên cứu trên 39 doanh nghiệp niêm yết trong thời gian từ 2007 đến 2015 cho thấy, tất cả các doanh nghiệp đưa vào mẫu đều có hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Hành vi điều chỉnh tăng nhiều hơn giảm nhưng quy mô điều chỉnh thấp hơn. Tiếp tục sử dụng mô hình dữ liệu bảng để kiểm tra ảnh hưởng của thay đổi thuế suất đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận, kết quả cho thấy việc thay đổi thuế suất có ảnh hưởng đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận nhưng bằng chứng đưa ra chưa thật sự rõ ràng. Từ khóa: Điều chỉnh lợi nhuận, doanh nghiệp niêm yết, thuế thu nhập doanh nghiệp. 1. Đặt vấn đề đó có chi phí tuân thủ về thuế. Bên cạnh đó, theo lý Ngày 9/3/2018, Việt Nam chính thức ký kết thuyết chi phí chính trị, những thay đổi trong chính Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái sách của nhà nước (các chính sách thuế) sẽ ảnh Bình Dương (Comprehensive and Progressive hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp, từ đó dẫn Agreement for Trans-Pacific Partnership đến khả năng nhà quản trị sử dụng các biện pháp kế (CPTPP)), cùng với đó là hàng loạt cải cách thuế toán nhằm tăng hoặc giảm lợi nhuận doanh nghiệp liên quan, đặc biệt là những chính sách thuế suất sao cho có lợi cho doanh nghiệp nhất [10]. Từ hai và ưu đãi thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp lý thuyết cơ bản nêu trên, có thể thấy những thay cho các lĩnh vực công nghệ mới và xu hướng giảm đổi trong chính sách thuế sẽ tác động đến hành vi thuế suất là tất yếu và phù hợp với tiến trình của điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản trị sao cho có các quốc gia Châu Á [9]. Điều này kéo theo những lợi nhất. Một trong những biểu hiện của thay đổi hành vi quản trị của doanh nghiệp cũng sẽ thay chính sách thuế đó là về tỷ suất thuế thu nhập doanh đổi theo trong đó có hành vi điều chỉnh lợi nhuận nghiệp danh nghĩa (Statutory Tax Rate). Xét về mặt của doanh nghiệp. lý thuyết, khi thay đổi tỷ suất thuế danh nghĩa theo Hành vi điều chỉnh lợi nhuận của doanh hướng giảm tỷ suất thuế thì lợi nhuận ở thời điểm nghiệp được đề cập đầu tiên trong nghiên cứu của trước thay đổi thuế suất sẽ được điều chỉnh giảm Hepworth (1953) khi chỉ ra hành vi và cách thức xuống và sẽ điều chỉnh tăng lên sau thời điểm thay mà nhà quản trị sử dụng để san đều lợi nhuận giữa đổi thuế suất. các năm nhằm giảm mức độ đánh giá rủi ro của nhà Như vậy, xét về mặt lý thuyết, khi có sự thay đầu tư đối với doanh nghiệp [7], [8]. Đây được xem đổi trong chính sách thuế sẽ tác động đến hành vi là khởi đầu cho khái niệm về hành vi điều chỉnh điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản trị trong doanh lợi nhuận dựa trên cơ sở dồn tích. nghiệp. Để kiểm chứng điều này, nghiên cứu sẽ sử Theo lý thuyết đại diện (Agency theory) được dụng phương pháp định lượng thông qua mô hình phát triển bởi Jensen & Meckling (1976), nhà quản hồi quy nhằm kiểm tra các giả thuyết về ảnh hưởng lý sẽ có những biện pháp tác động vào thông tin của thay đổi thuế suất đến hành vi điều chỉnh lợi công bố theo hướng có lợi cho doanh nghiệp nhất, nhuận (xem xét hành vi điều chỉnh lợi nhuận dựa trong khi các tổ chức bên ngoài như cơ quan thuế trên cơ sở dồn tích) của các doanh nghiệp niêm yết lại tìm cách để tối đa khoản thu cho nhà nước trong trên thị trường chứng khoán Việt Nam. 2. Cơ sở lý thuyết (*) Trường Đại học Quảng Bình. Cơ sở kế toán dồn tích là một trong các nguyên 112 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 39 (08-2019) tắc kế toán cơ bản nhất chi phối các phương pháp động kinh doanh nói riêng phải được lập trên cơ sở kế toán cụ thể trong kế toán. Theo đó, mọi giao dịch dồn tích. Điều này mang lại cơ hội cho nhà quản kinh tế liên quan đến tài sản, nợ phải trả, nguồn vốn trị thực hiện hành động quản trị lợi nhuận thông chủ sở hữu, doanh thu và chi phí được ghi nhận tại qua các giao dịch không bằng tiền nhằm đạt được thời điểm phát sinh giao dịch, không quan tâm đến một mục tiêu nào đó. Trong khi đó, kế toán theo thời điểm thực tế thu hoặc chi tiền [1]. Vì việc ghi cơ sở tiền được sử dụng để lập báo cáo lưu chuyển nhận doanh thu và chi phí có ảnh hưởng quyết định tiền tệ (theo phương pháp trực tiếp) dựa trên cơ sở đến báo cáo lợi nhuận của doanh nghiệp trong một thực thu, thực chi tiền nên nhà quản trị không thể kỳ, cơ sở kế toán dồn tích được xem là một nguyên điều chỉnh các giao dịch. Từ đó chênh lệch giữa lợi tắc chính yếu đối với việc xác định lợi nhuận của nhuận trên Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh doanh nghiệp. Lợi nhuận theo cơ sở dồn tích là và dòng tiền trên Báo cáo lưu chuyển tiền tệ (theo phần chênh lệch giữa doanh thu và chi phí, từ đó, phương pháp trực tiếp) tạo ra biến kế toán gọi là báo cáo tài chính nói chung và báo cáo kết quả ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Hành vi điều chỉnh lợi nhuận Điều chỉnh lợi nhuận của các doanh nghiệp Doanh nghiệp niêm yết Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp Tỷ suất sinh lời của tài sảnGợi ý tài liệu liên quan:
-
Cấu trúc sở hữu và chính sách cổ tức của các doanh nghiệp niêm yết: Bằng chứng tại Việt Nam
7 trang 145 0 0 -
59 trang 123 0 0
-
9 trang 108 1 0
-
10 trang 104 0 0
-
9 trang 68 0 0
-
Ảnh hưởng trung gian của giải thưởng tới mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính
6 trang 52 0 0 -
15 trang 48 0 0
-
12 trang 37 0 0
-
2 trang 35 0 0
-
24 trang 34 0 0