Danh mục

Nghiên cứu một số hội làng trên địa bàn Hà Nội: Phần 1

Số trang: 546      Loại file: pdf      Dung lượng: 43.98 MB      Lượt xem: 14      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 33,000 VND Tải xuống file đầy đủ (546 trang) 0
Xem trước 10 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Phần 1 cuốn sách "Nghiên cứu một số hội làng ở Hà Nội" giới thiệu tới người đọc toàn cảnh hội làng Hà Nội được văn bản hóa, không chỉ cốt giới thiệu những nét đặc sắc và giá trị nguồn văn hóa phi vật thể của Thăng Long - Hà Nội, mà còn là phương thức lưu giữ tài sản tinh thần quý giá này. Sách được chia thành 2 phần, mời các bạn cùng tham khảo phần 1 cuốn sách.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nghiên cứu một số hội làng trên địa bàn Hà Nội: Phần 1 LẼ TRUNG VŨ [Ỵ1 NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA - THÔNG TIN u n & VIỆN VĂN HÓA 2ÔỘÌ l à n t ị ~ỉ()ù Q ĩ ỏ i LÊ TRUNG VŨ IịộJ LKĨtũ lịÀ TLỘ2 NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA - THÔNG TIN & VIỆN VĂN HÓA HÀ NỘI - 2006 J íò ’i g i ớ i th iê u M ộ t số công trình khoa học, lịch sử... với những thông tin bổ ích và xác thực về sinh hoạt văn hóa - tôn giáo của cộng đồng người Việt đã hình thành từ rất sớm trên đất đế đô này. Chẳng hạn, ngày hội đua thuyền có từ thời tiền Lê: Năm Thiên Phúc thứ 6 (985) đòi Lê Đại Hành, gặp ngày sinh... vua mở cuộc đua thuyền cho dân chúng thi. Từ đó năm nào cũng có hội đua thuyền0. Nhưng sử không ghi vua mở hội trên dòng sông nào. Đời Lý, các vua càng hâm mộ hội này hơn. Vua cho xây nhiều cung điện nguy nga ở phía đông kinh thành, trên bờ sông Nhị đê vua cùng bá quan và hoàng hậu, phi tần, công chúa dự; như điện Hàm Quang (1011), điện Linh Quang (1058), hoặc sau đó vua Anh Tông (1138 - 1175) cho xây cung Thánh từ và cung Thủy tinh... Còn dân chúng và quân lính tụ tập 2 bên bờ sông rấ t đông(2). Đua thuyền là loại hội nước, triều đình coi là hội thượng võ, vừa là để rèn luyện thủy quân dành cho các cuộc thủy chiến (đã từng xảy ra và sẽ còn xảy ra trong tương lai) như lịch sử đã chứng minh trước đó (thòi Ngô Quyển) và sau đó (thời Trần); vừa đê’ giải trí cho quần thần và dân chúng. N h ữ n g đại lễ và vũ khúc của vua chúa Việt Nam . Đỗ Bằng Đoàn - Đỗ Trọng Huề. NXB Văn học, 1992. 121 Xã Kỳ Bô*, huyện Vũ Tiên (Thị xã Thái Bình ngày nay) - Theo N hững đại lễ... sđd các tran g 89, 90. 5 Hội tuy do triều đình tổ chức song nó mang tính toàn dân và được các bô lão làng quê giải thích theo ý nghĩa khác. Các cụ nói rằng, đua thuyền là việc đánh thức thủy th ần mong nưốc nh u ần tưới cho .đồng ruộng. Quy lại, đua thuyền là một dạng thức cầu mùa nghề nông. Chúng ta còn biết các triều đại Lý, Trần là những thời đại cực thịnh của chế độ phong kiến Việt Nam, cũng là những triều đại rấ t quan tâm đến đòi sông nhân dân, trước hết là nông nghiệp. Cho nên không chỉ hội đua thuyền mà một nghi lễ khác gần gũi với nghề nông hơn, là lễ tịch điền từng được thực hiện. Lễ này tổ chức lần đầu vào năm Thiên Phúc thứ 8 (987). Mùa xuân năm đó vua Lê Đại Hành đích thân cày ruộng ở Đội Sơn, bắt được một chum vàng. Năm sau vua cày ở Bàn Hải(1>, lại được một chum bạc. Vì th ế những thửa ruộng ấy được gọi là Kim ngân điền(2). Đời Lý, vua Thái Tông, năm Thông Thụy thứ 5 (1038), sai quan Hứa Ty đắp đền thò thần Nông. Vua đích th ân đến cầu cho mùa màng tươi tốt, rồi đích thân ra cày ruộng tịch điển ở Bô Hải(3). sử cũ ghi tiếp, năm sau vua cày ruộng tịch điền ỏ Đỗ Động(,). Mùa hè, vua ra xem dân gặt, có người nông dân dâng một cụm thóc chiêm, mỗi bẹ nảy được 9 bông. Đời Trần đắp đàn xã tắc(5), hàng năm vua cử quan ra tế, không làm lễ tịch điển. (l) 1,1‘Thuộc Hà Tây. U) Kim ngân điền: ruộng bạc. c5) Xã tắc: - Đàn Xã thờ trời đ ất và thần Thái Xã (trông bờ cõi). - Đàn Tắc thờ th ầ n Thái Tắc, tức vua Thần Nông. 6 ĐỜI Lê, năm 1484 (Hồng Đức thứ 15), vua Thánh Tông dựng đàn Tiên Nông ỏ làng Hồng Mf i(1) ngoài kinh đô Thăng Long. Đàn cao 7 thước“ rộng 36 thước, tường đất bao quanh. Hàng năm vua và các quan ra tê Thần Nông và làm lễ tịch điền. Ngoài ra lại có lễ lập xuân và lễ tiến xuân ngưu và tục đả xuân ngưufcây côi... Làng là nơi để mồ mả. Làng trỏ nên thiêng liêng mỗi khi xa quê, được trở về thắp nén hương tưởng niệm tổ tiên, người ta có dịp ôn lại quá khứ để từ đó, suy tưởng tới hôm nay, về nhiệm vụ của cháu con đối với quê hương đất nước. Làng cũng hình thành dần dần chứ không đột nhiên mà có. Như vậy từ thuở ban đầu, Hà Nội cũng từng là một làng Hà Nội nhỏ nào đó với núi Nùng, sông Tô. Rồi do tính chất trung tâm đất nước, Thăng Long đã thu hút được những tinh hoa văn hóa của các vùng miền về đây. Mặt khác, Hà Nội tuy đã định danh là đô thị - kinh đô từ lâu, song dấu vết nông thôn vẫn còn đậm nét. Bởi đây là một đô thị tru n g cổ kiểu phương Đông, loại đô thị phát triển chậm. Mặc dầu vậy, Hà Nội vẫn được coi là đô thị phát triển hàng đầu của cả nước. Nhưng Việt Nam, trong quá trình trưởng thành luôn bị quân xâm lược dòm ngó, tấ n công. Sự chông trả không mệt mỏi của cả nước cũng như của người Hà Nội, đê cuối cùng chúng ta luôn giành chiến thắng, đã tạo lập một Thăng Long - Hà Nội không chỉ có dinh thự, 36 phô phường vối nhà cửa như bát úp, mà còn có một số đình, đền, chùa, miếu thờ các anh hùng lịch sử, anh hùng văn hóa đã bảo vệ và tô điểm cho đất nước, đê đô này ngày một sáng lạn văn minh hơn. Thảng Long - Hà Nội, vùng dất dịa linh nhân kiệt đã cùng cả nước bước vào thiên niên kỷ mới trong niềm hân hoan lớn, bởi trong tất cả các tỉnh thành, chỉ riêng Hà Nội, đúng hơn là Thăng Long - Hà Nội sẽ đón mừng ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu liên quan: